Luận về Kinh
Thiện Sanh
Tài Liệu Huấn Luyện Huynh
Trưởng Cấp I A Dục
Miền Thiện Minh - Hoa Kỳ
I. Mở Ðầu
Mục đích giáo pháp
của Ðức Phật là giúp chúng sanh
giác ngộ và thoát khỏi cảnh khổ
sanh tử luân hồi, chứng ngộ Phật tánh
Niết Bàn. Trong đó, sự sống của
con người không những được Ðức
Phật đề cao, mà vấn đề thuần
lương hóa đời sống xã hội
qua việc hoàn thành nhân cách với
đạo xử thế của người Phật tử
tại gia đã được Ðức Phật
chỉ dạy tường tận trong Kinh Thiện Sanh.
II. Nội Dung Kinh Thiện Sanh
A. Nguyên Nhân Ðức
Phật Nói Kinh
Thiện Sanh là con một trưởng
giả giàu có ở thành Vương
Xá (còn gọi là La Duyệt Kỳ.) Theo
lời trăn trối của cha, mỗi sáng Thiện
Sanh ra vườn, quay mặt về sáu hướng
mà làm lễ Lục Phương. Công
việc hàng ngày ấy, Thiện Sanh làm như
cái máy, tuyệt nhiên không hiểu ý
nghĩa ra sao.
Phật nhân mang bình bát
đi qua, trông thấy như vậy, bèn phương
tiện chỉ dạy Thiện Sanh ý nghĩa của
Lễ Lục Phương.
B. Phần Chính Của Kinh
1. Rèn Dũa Tự Thân,
Trau Giồi Nhân Cách:
Mở đầu, Ðức Phật
chỉ rõ 4 loại kiết sử và sáu
loại hao tài mà người PHật Tử
cần phải dứt trừ để trở thành
con người thánh thiện.
-
Rèn dũa tự thân bằng
cách dứt trừ 4 loại kiết sử:
-
Không sát sinh
-
Không trộm cướp
-
Không tà dâm
-
Không vọng ngữ
mà nguyên nhân chính
để gây ra các điều xấu ác
trên là tham, sân, si, và tánh thiên
vị.
Õ
-
Sáu loại hao tài:
Con người ta sống ở
đời, đa số chỉ vì danh vọng và
tài sắc trong đó, sáu điều xấu
ác sau đây mà kẻ vô trí cho là
điều vui thích sẽ gây ra muôn vàn
lầm lỗi lớn:
-
Ăn uống không điều độ
sẽ gây ra hậu quả là nghèo khổ,
ốm đau, tánh hèn hạ, sự dèm
pha và năng lực giảm sút.
-
Ham mê ca xướng và lễ
tiệc sẽ gây ra hậu quả là trụy lạc,
phóng túng và ham mê dục lạc,
không có năng lực cung dưỡng gia
đình.
-
Ham mê cờ bạc sẽ gây
ra hậu quả là nếu thắng cuộc thì
là nạn nhân của sự thù oán,
nếu thua cuộc thì sẽ bị bức rức
dày vò và đau khổ vì tham tiếc
đưa đến nhiều lầm lỗi khác; bị
bạn bè, họ hàng thân thuộc khinh
khi.
-
Biếng nhác, giãi đãi
sẽ gây ra hậu quả là chẳng làm
lợi ích gì cho mình và cho người.
-
Lang thang ngoài phố lúc về
đêm sẽ gây ra hậu quả là vợ
con rời bỏ, nghèo cùng khốn khổ, bị
nghi ngờ ở những nơi có tiếng xấu,
luôn say sưa và sinh ra sự phóng đãng
trác táng.
-
Chơi thân với bạn ác
hèn sẽ gây ra hậu quả là chính
mình sẽ phạm phải những điều x ấu
ác, sẽ bị đào thai ở trong mọi
không gian và thời gian. Bạn xấu ác
là những người vì lợi nhưng
bất tài, nịnh hót bợ đỡ, ăn
chơi phóng đãng. Bạn tốt là
những người cần mẫn, thương yêu
hướng về ta, thường cho ta những ý
kiến hay, lời khuyên tốt, giúp đỡ
ta khi cần thiết, luôn bên cạnh ta trong tinh
thần lục hòa.
2. Ý Nghĩa Lễ Lục Phương
hay Ðạo Xử Thế của Người Phật
Tử Tại Gia:
Ðức Phật khuyên Thiện
Sanh nên tiếp tục lạy Sáu Phương
như lời cha y trăn trối, nhưng thổi
vào việc hành lễ ấy một ý nghĩa
luân lý có tác dụng giáo dục
rõ ràng, như mỗi lần lạy là
một lần Niệm Ân, để nhắc nhở mình
cư xử thế nào cho hợp lẽ:
-
Lạy phương Ðông: là
cốt để tỏ lòng hiếu kính cha mẹ.
Năm phép hiếu đạo
của người con đối với cha mẹ là:
-
Luôn phụng dưỡng, cung
ứng những nhu cầu cần thiết cho cha mẹ.
-
Thay thế cha mẹ những công
việc khó làm.
-
Bảo vệ danh giá dòng họ,
thể hiện qua đạo đức của đời
sống bản thân mình.
-
Làm thế nào để xứng
đáng là người thừa kế của
cha mẹ sau này.
-
Thường thương kính,
tưởng niệm, hồi hướng cho cha mẹ
đã qua đời.
Năm phép về sự
săn sóc thương mến của cha mẹ
dành cho con:
-
Giữ gìn cho con không có
nhiễm những thói hư tật xấu, dứt
trừ các điều ác, làm các việc
lành.
-
Giáo dục con cái được
chu toàn.
-
Tạo dựng cho con làm ăn
chánh đáng.
-
Tạo lập gia đình cho con
cái một cách xứng đáng.
-
Cho con cái bàn tính, tham
dự việc nhà, cùng góp công cho sự
xây dựng hạnh phúc gia đình.
-
Lạy phương Tây: là
cốt để tỏ lòng tri ân thầy bạn.
Năm phép về bổn
phận trò thờ kính thầy:
-
Cung kính và thành thật
với thầy.
-
Luôn hầu hạ và săn
sóc thầy.
-
Vâng lời dạy bảo của
thầy.
-
Chăm chú học hỏi những
lời dạy của thầy.
-
Cầu học với thầy những
điều mình chưa hiểu.
Năm phép về tình
nghĩa của thầy dành cho trò:
-
Cố gắng giáo huấn tất
cả những kiến thức hay.
-
Luôn chỉ dạy vun bồi sở
học cho trò.
-
Thường hướng dẫn
các môn khoa học và các môn khác.
-
Che chở cho trò mỗi khi gặp
nguy hiểm.
-
Phải có lòng rộng rãi,
mong muốn cho trò giỏi hơn mình.
-
Lạy phương Nam: là cốt
để tỏ lòng kính yêu, nhường
nhịn giữa vợ chồng.
Năm phép của chồng
thương yêu vợ:
-
Ðối xử với vợ một
cách kính mến.
-
Luôn hòa nhã, thanh cao đối
với vợ.
-
Giữ gìn tín trung với
vợ.
-
Giữ gìn cho người khác
kính nể vợ mình.
-
Cung cấp cho vợ các thứ
cần dùng.
Năm phép của vợ
yêu thương chồng:
-
Trực tiếp lo dọn dẹp gọn
gàng trong nhà.
-
Khoản đãi niềm nở gia
đình và bạn bè của chồng.
-
Giữ tín trung với chồng.
-
Giữ gìn coi sóc thận trọng
của cải trong nhà.
-
Siêng năng khéo léo làm
tròn bổn phận của mình.
-
Lạy phương Bắc: là
cốt để tỏ lòng mến phục lân
mẫn đối với thân bằng quyến thuộc
và bạn bè.
Năm phép đối với
thân bằng quyến thuộc:
-
Khuyên can, răn nhắc bà
con khi có người làm việc chẳng lành.
-
Hết lòng giúp đỡ về
cả tinh thần lẫn vật chất khi có người
bị đau ốm, tai nạn, tật yếu...
-
Không nên tiết lộ cho người
khác biết về những việc kín đáo,
riêng tư của bà con.
-
Không cố chấp giận hờn,
mà nên hoan hỷ, thường xuyên lui tới
thăm viếng.
-
Tận tình giúp đỡ bà
con nghèo khổ.
Năm phép đối với
bạn bè:
-
Bảo vệ, cứu vớt bạn
những khi sa cơ thất thế.
-
Ðùm bọc và giúp
đỡ chỗ nương náu mỗi khi bạn
lâm vào tình cảnh khốn khó.
-
Không bỏ lơ bạn trong trường
hợp nguy nan.
-
Tỏ ra hòa nhã và vui thích
tới gia đình của bạn.
-
Tánh tình rộng rãi, khoan
hồng, hòa nhã, thanh cao và luôn sống
trong tinh thần bình đẳng.
-
Lạy phương Hạ: là
cốt để tỏ lòng thương xót
nô bộc.
Năm phép của chủ
muốn khuyến khích nâng đỡ người
giúp việc của mình:
-
Giao công việc thích hợp
đối với thể lực của họ.
-
Cho họ đồ ăn thức uống
và lương bổng thích hợp.
-
Chăm sóc chu đáo khi có
bệnh tật.
-
Chia xẻ cảc mỹ vị cho họ.
-
Cho họ được nghỉ phép
đúng mức.
Năm phép của người
giúp việc đối với chủ:
-
Thức dậy sớm trước
chủ, nghỉ ngơi sau chủ.
-
Luôn làm tròn nhiệm vụ
và ý thức trách nhiệm của mình.
-
Giữ gìn tài vật của
chủ, không làm vụt chạc hư hao.
-
Hết lòng kính mến chủ.
-
Giữ gìn danh dự và những
điều hay cho chủ không chỉ trích nói
xấu chủ với người khác.
-
Lạy phương Thượng:
là cốt để tỏ lòng ngưỡng mộ
Sa Môn.
Năm phép đối với
bậc Ðạo Sư:
-
Phải cung kính vâng lời dạy
bảo của quý Thầy, Cô.
-
Lời nói đúng đắn
và thành thật đối với chư Tăng,
Ni.
-
Những tư tưởng phải
thanh tịnh, suy xét cho kỹ lời dạy bảo
của các vị Tăng lành đức độ,
rồi như pháp mà tu hành.
-
Cầu học chân thành về
những bí yếu của Giáo lý mà
mình chưa hiểu.
-
Cúng dường những phẩm
vật cần thiết.
Năm phép của các
bậc Ðạo Sư đối với Phật Tử:
-
Khuyên tránh điều dữ.
-
Khuyên làm việc lành.
-
Hết lòng thương mến,
chỉ dạy cho họ con đường tu nhân
tích đức.
-
Hóa giải các nghi chấp.
-
Chỉ rõ con đường dẫn
tới các cõi Thánh.
III. Kết Luận
Từ phép lạy Sáu Phương
của Bà La Môn, có lẽ với dụng
ý cầu tài cầu lợi, Phật đã
phương tiện chuyển đổi ý nghĩa
thành một phép tu mà không cải đổi
mảy may hình thức, khiến tục lệ khỏi
phải bị xáo trộn.
Huynh trưởng chúng ta học
và hành theo lời dặn của Ðức Phật
qua kinh Thiện Sanh, không những để rèn
dũa tự thân, trau dồi nhân cách, mà
còn góp phần thuần lương hóa
xã hội theo tinh thần Phật Giáo.
Tài liệu tham
khảo:
-
Kinh Giáo Thọ
Thi-Ca-La-Việt (Singàlovàda-Suttanta), Kinh Trường
Bộ tập 2, Ðại Tạng Kinh Việt Nam, PL.
2535, 1991
-
Kinh Thiện Sanh, Kinh
Trường A Hàm tập 1, Ðại Tạng Kinh
Việt Nam, PL. 2535, 1991
GÐPTVN
Hải Ngoại | Thư
Viện Lam | A
Dục