Tài
Liệu Huấn Luyện Ðội/Chúng Trưởng
Trại Anoma - Ni Liên
(Miền Quảng Ðức - Hoa
Kỳ)
Mục Lục
Tứ Nhiếp Pháp *
Lục Hòa *
Nghề Ðội/Chúng Trưởng *
Tinh Thần Ðồng Ðội *
Hiểu Mình, Hiểu Bạn *
Ðội/Chúng Tự Trị *
Hình Thức và Hiệu Lệnh
Tập Họp *
Tứ
Nhiếp Pháp
Vì mục đích lợi
sinh, lợi ích cho cuộc sống nhân loại,
Ðức Phật đã chỉ dạy pháp
môn Tứ Nhiếp Pháp. Ðây là 4 phương
pháp căn bản, giản dị để khuyến
hóa, nhiếp độ và thu phục lòng
người.
Trong vai trò điều khiển
và hướng dẫn, người Ðội/Chúng
Trưởng cần phải tìm hiểu và áp
dụng 4 phương pháp này trong chính
đời sống của mình, trong mọi sinh hoạt
của Ðội/Chúng để xây dựng Ðội/Chúng
ngày thêm vững mạnh.
I. Ðịnh Nghĩa
Tứ Nhiếp Pháp là bốn
phương pháp nhiếp hóa, thu phục
và giác ngộ chúng sanh.
II. Hành Tướng của
Tứ Nhiếp Pháp
-
Bố Thí Nhiếp: Tức dùng
phương tiện bố thí, cho đi để
nhiếp hóa, thu phục. Bố thí có 3
cách:
-
Tài Thí: Tức dùng của
cải, vật chất hay thân mạng để nhiếp
hóa, thu phục.
-
Pháp Thí: Ðem giáo pháp
chân chính để nhiếp hóa, thu phục.
-
Vô Úy Thí: Ðem sự
không sợ, sự an tâm đến cho mọi
người để nhiếp hóa, thu phục.
-
Ái Ngữ Nhiếp: Dùng lời
nói sáng suốt, từ hòa, thành thật
và thương yêu để nhiếp hóa,
thu phục.
-
Lợi hành nhiếp: Dùng những
hành động có lợi trong công việc,
trong tu tập để cảm hóa, thu phục.
-
Ðồng sự nhiếp: Cùng hòa
đồng trong một công việc, trong một hoàn
cảnh, một địa vị để cảm hóa,
thu phục.
III. Tứ Nhiếp Pháp Áp
Dụng Vào Thực Tế
Vận dụng 4 phương pháp
trên một cách tích cực, đúng
đắn vào mọi hoàn cảnh trong đời
sống hay trong sinh hoạt của Ðội Chúng,
chẳng những sẽ mang lại nhiều lợi ích
giữa cá nhân với cộng đồng xã
hội mà còn mang lại nhiều lợi ích
cho một tập thể dù nhỏ như Ðội/Chúng.
Cụ thể như:
-
Vận dụng Bố thí nhiếp
các em sẽ mang lại niềm an ủi, gần gủi,
yêu thương nhau, đem lại cho nhau sự
bình an khi cùng nghĩ rằng chung quanh các
em luôn luôn có sự che chở của bè
bạn.
-
Vận dụng Ái ngữ nhiếp,
các em có được lời hay ý đẹp,
được mọi người yêu quý tin
tưởng, xây dựng được sự
đồng tâm nhất trí trong ý nghĩ
và trong công việc.
-
Vận dụng Lợi hành nhiếp
các em sẽ có được những lợi
ích trực tiếp khi cùng giúp nhau hoàn
thành mỹ mãn công việc của Ðội/Chúng.
-
Vận dụng Ðồng sự nhiếp
các em sẽ rèn luyện được cho bản
thân mình nếp sống hòa hợp, xóa
đi hố ngăn cách và xây dựng cuộc
sống bình đẳng trong quan hệ với nhau
và với mọi người.
IV. Kết Luận
Tứ nhiếp pháp là một
pháp môn rất cụ thể, hoàn bị,
áp dụng được trong cuộc sống,
thể hiện hạnh nguyện lợi sanh: Tự lợi
tha, tự giác giác tha. Ðây là pháp
môn có giá trị cao đẹp, tiêu biểu
và siêu việt trong kho tàng giáo lý
của Phật Giáo.
Lục
Hòa
Lục Hòa hay Sáu Phép
Hòa Kính là phương pháp do đức
Phật chế ra, là nguyên tắc căn bản
cho các bậc xuất gia chung sống với nhau.
I. Hành Tướng của
Lục Hòa
-
Thân hòa đồng trú: Sự
hòa hợp về thân thể như chung sống
một chỗ, cùng một việc làm, cùng
sinh hoạt trong một tổ chức... Trong cuộc
sống chung đó cần phải có ý thức
hòa hợp với nhau khi cùng sống cạnh
nhau, cùng sinh hoạt, cùng tu học bên
nhau...
-
Khẩu hòa vô tránh: Sự
hòa hợp về lời nói, dùng lời
từ hòa nhỏ nhẹ để trao đổi công
việc hay giải thích những khúc mắc giữa
nhau, không cãi mắng, to tiếng, thô tục.
-
Ý hòa đồng duyệt: Sự
hòa hợp về ý nghĩ, nghĩa là
dung hòa ý kiến với nhau, không nên
mỗi người một ý chống báng lẫn
nhau trong công việc, trong sinh hoạt.
-
Giới hòa đồng tu: Sự
hòa hợp về sự giữ gìn giới
luật nghĩa là đồng tuân theo, thực
hành những giới luật, những điều
quy định chung như nội quy, luật pháp,
các điều răn.
-
Lợi hòa đồng quân: Sự
hòa hợp về quyền lợi, nghĩa là
khi có những quyền lợi về vật chất
hay tinh thần thì phải san sẻ đồng đều
cho nhau, không nên để kẻ nhiều người
ít, gây ra sự bất công.
-
Kiến hòa đồng giải: Sự
hòa hợp về kiến thức, nghĩa là
mọi sự hiểu biết đều được
trình bày giải thích cho nhau, cùng học,
cùng hiểu.
II. Kết Luận
Sự hoà hợp về Thân,
Khẩu, Ý, Giới, Lợi, Kiến không những
là sáu phép hòa kính cho tập thể
xuất gia tu hành theo Phật mà còn có
thể áp dụng cho mọi tập thể. Ðối
với Ðội/Chúng trong Gia Ðình Phật
Tử, Sáu Phép Hoà Kính là phương
tiện căn bản mang lại sự hòa đồng,
bình đẳng trong tập thể, xây dựng
nếp sống chung theo lời Phật dạy, tinh tấn
trên con đường tu học, giải thoát,
giác ngộ.
Nghề
Ðội/Chúng Trưởng
"Nhất nghệ tinh, nhất thân
vinh". Trên đời này có không biết
bao nhiêu nghề, mỗi người tự chọn
lấy một nghề phù hợp với khả
năng, thiên chức của mình. Ðiều
khiển, dìu dắt một Ðội/Chúng vững
mạnh theo đúng chương trình của
tổ chức không phải bất cứ ai cũng
làm được mà phải đòi hỏi
ở người điều khiển một tinh thần,
một khả năng chuyên nghiệp. Cho nên khi
chọn nghề, Ðội/Chúng Trưởng
cần phải thận trọng đắn đo vì:
-
Ðội/Chúng Trưởng cũng
như Ðoàn Trưởng có bổn phận
nhắc nhở và dắt dìu Ðội sinh/Chúng
viên trên đường tu học.
-
Thực hiện nhiều công việc
được Ðoàn giao phó.
-
Ðội/Chúng Trưởng là
người then chốt của Hàng Ðội Chúng
Tự Trị.
I. Hệ Thống Tổ Chức Ðội/Chúng
Ðội/Chúng là cơ
sở căn bản của Tổ Chức Gia Ðình
Phật Tử, gồm một số người nhỏ
sít sát tuổi nhau, cùng làm việc,
cùng vui chơi, cùng theo kỷ luật và
cùng chung bổn phận. Mỗi Ðội/Chúng
điển hình gồm có 8 em: Ðội/Chúng
Trưởng, Ðội/Chúng Phó và 6
Ðội sinh/Chúng viên, mỗi em giữ một
công việc của Ðội/Chúng.
II. Học Nghề
-
Hướng đi: Ðường
đi thật dễ nhưng tìm một phương
thức nào đó để đi cho khỏi lạc
hướng, không vướng víu, không
bị cám dỗ mới khó. Là Ðội/Chúng
Trưởng, sau lưng mình còn biết bao
con mắt trông theo, hoặc tìm một vẻ
đẹp, hoặc xoi mói, hoặc thán phục.
Vì thế, người Ðội/Chúng Trưởng
phải có một hướng đi chắc chắn
từ tư tưởng, nội tâm đến
việc làm, cần phải có đức tin tuyệt
đối:
-
Tin ở Ðức Phật
-
Tin ở chính mình
-
Tin vào Tổ Chức
-
Yêu nghề: Ðã chọn
cho mình một hướng đi, người Ðội/Chúng
Trưởng có bổn phận yêu mến,
chăm sóc lối đi đó bằng cách
luôn luôn yêu mến nghề của mình,
vì:
-
Có yêu nghề mới thấy
sung sướng, thỏa mãn khi điều khiển
-
Có yêu nghề mới hăng
say trong bổn phận
-
Có yêu nghề mới chịu
đựng được mọi gian lao trở ngại
-
Có yêu nghề mới chịu
trau dồi nghề để tiến theo kịp đà
tiến chung quanh.
-
Sứ mạng: Những quyến rũ
ở đời như giòng nước chảy
mạnh. Tự mình không để cho giòng
nước cuốn đã là khó, làm
cho kẻ khác không bị lôi cuốn càng
khó hơn. Ðừng xét mình là
giọt nước nhỏ nhoi so với biển cả;
thử hỏi không sự góp nhặt của
những giọt nước làm gì có
đại dương. Hãy tạo cho những
giọt nước trong để có một đại
dương xanh biếc.
-
Lý tưởng: Không say mê
vì những ngoại cảnh đẹp đẻ cám
dỗ, không chán nản vì những chông
gai, bình tỉnh tiến bước, can đảm
vượt qua những trở ngại để tiến
đến mục đích của con đường
đã chọn cho đời mình.
III. Hành nghề
-
Tư cách và khả năng:
Việc dìu dắt Ðội sinh/Chúng viên
buộc người Ðội/Chúng Trưởng
phải làm gương, phải hơn Ðội
sinh/Chúng viên về mọi mặt.
-
Tác phong: Người Ðội/Chúng
Trưởng cần có một tác phong đứng
đắn để làm gương cho Ðội
sinh/Chúng viên của mình. Từ y phục
chỉnh tề, tóc tai gọn gàng cho đến
lời nói, cử chỉ, hành động cần
phải ý tứ để giữ gìn tư cách
của một người điều khiển, không
nói năng bừa bãi, làm việc cẩu
thả.
-
Hiểu biết: Người Ðội/Chúng
Trưởng phải vượt hẳn, Phật Pháp
cũng như chuyên môn, phải biết nhiều
hơn và chín chắn. Có vậy mới
được tín nhiệm. Nhưng trên hết
người Ðội/Chúng Trưởng phải
có đời sống kiểu mẫu thường
nhật. Ở lớp là học trò tốt, ở
nhà là con ngoan và hiếu thuận.
-
Bổn Phận:
-
Ðối với anh chị Trưởng,
người Ðội/Chúng Trưởng phải
vâng lời và hoàn thành những công
việc đã được tin cậy giao phó
dầu khó khăn. Luôn luôn tin rằng: Anh
chị Trưởng không bao giờ dành cho
mình những công việc quá sức. Ngoài
ra, người Ðội/Chúng Trưởng còn
có bổn phận làm cho anh chị Trưởng
biết rõ Ðội/Chúng của mình. Trình
bày đúng đắn về tình hình,
hoàn cảnh của từ Ðội sinh/Chúng
viên. Góp ý với anh chị Trưởng
để xây dựng Ðoàn. Còn phải
làm sao cho tất cả giống mình để
anh chị Trưởng nhìn Ðội sinh/Chúng
viên của mình bằng đôi mắt thán
phục.
-
Ðối với gia đình Ðội
sinh/Chúng viên, người Ðội/Chúng
Trưởng phải là một người khách
thân nho nhỏ, lễ phép; là người
mà gia đình Ðội sinh/Chúng viên
thương mến, tin tuởng, bao giờ phụ
huynh cũng muốn cho con em họ trở nên như
mình.
-
Ðối với Ðội sinh/Chúng
viên, người Ðội/Chúng Trưởng
phải có bổn phận làm cho Ðội sinh/Chúng
viên xem Ðội/Chúng mình như một
gia đình nho nhỏ, có tổ chức, mà
các phần tử luôn luôn yêu thương
xây dựng, mong muốn cho Ðội/Chúng mình
tiến mãi, hơn các Ðội/Chúng
khác, không phải nhờ vã, ỷ lại
một ai, vui buồn theo với những thăng trầm
của Ðội/Chúng, nghĩa là phải gây
dựng cho được trong Ðội sinh/Chúng
viên tinh thần đồng đội. Người Ðội/Chúng
Trưởng phải tìm hiểu rõ ràng
khả năng, tình hình của mỗi Ðội
sinh/Chúng viên, nâng đỡ từng em một
để tương đối sự hiểu biết
các em được ngang nhau. Không nên thiếu
kiên nhẫn mà bỏ rơi một người
bạn đang chậm bước trên đường.
IV. Ðiều Khiển
-
Ðức tính: Muốn điều
khiển một Ðội/Chúng cố nhiên phải
có khả năng nhưng cũng phải nghĩ
đến vài đức tính trong nghệ thuật
điều khiển:
-
Giản dị
-
Can đảm, tự tin
-
Vui vẻ, lanh lợi
-
Bình tĩnh và tự chủ.
-
Nghệ thuật điều khiển: Nghệ
thuật điều khiển tức là cách khéo
léo để có thể điều khiển Ðội
sinh/Chúng viên với khả năng và đức
tính của mình. Không khéo léo thì
việc không thành, vì vậy mà người
kiến thức rộng, hiểu biết nhiều vẫn
không điều khiển được, không
có khiếu điều khiển. Hai điều kiện
cần yếu trong việc điều khiển:
Tuy thế, việc thưởng phạt
được nghiêm minh, chứng minh giá trị
của việc thưởng phạt và tầm quan
trọng của lỗi lầm đã phạm. Tha thứ
cũng cần thiết, nhưng khi đã cân
nhắc kỹ lưỡng, thấy cần phạt
thì phải cương quyết. Kiên nhẫn
cũng là một đức tính của người
điều khiển. Như thế, điều kiện sau
cùng của nghệ thuật điều khiển là:
Nghiêm trang và cương quyết.
V. Chọn lựa Ðội chúng
phó
Ðội/Chúng Phó là
người thay mặt và trợ giúp đắc
lực cho Ðội/Chúng Trưởng. Do đó,
khi lựa chọn Ðội/Chúng Phó cần
phải cân nhắc xem trong hàng Ðội/Chúng
những ai có đủ tư cách, khả năng,
uy tín. Ðội/Chúng Phó cần phải
đồng tâm hợp lực với Ðội/Chúng
Trưởng, hai người luôn luôn sát
cánh nhau, giữ uy tín cho nhau, đừng bao
giờ gây không khí tẻ nhạt cho Ðội/Chúng;
hai người phải xem nhau như anh em, chị em.
Công việc trong Ðội/Chúng được
điều hòa phát triển cũng do nơi
tinh thần hợp tác chặt chẽ giữa Ðội/Chúng
Trưởng và Phó. Khi chọn lựa Ðội/Chúng
Phó, cũng cần phải cân nhắc thăm
dò Ðội sinh/Chúng viên của mình.
VI. Phân Công
Phân công là phân chia
hợp lý hợp tình công việc trong Ðội/Chúng,
tạo cho Ðội sinh/Chúng viên có tinh
thần trách nhiệm, tránh tình trạng
người làm không hết việc, kẻ đi
chơi.
Người Ðội/Chúng Trưởng
phải hiểu rõ và tin nơi khả năng
của từng Ðội sinh/Chúng viên để
sự phân công được hợp lý.
Tuy thế, Ðội/Chúng Trưởng cũng
cần phải theo dõi, kiểm soát, đôn
đốc; nhưng khích lệ vẫn là một
yếu tố để tạo thành công. Người
Ðội/Chúng Trưởng không nên ôm
việc làm một mình mà luôn luôn
hội ý với Ðội sinh/Chúng viên,
phát triển khả năng sẵn có của
Ðội sinh/Chúng viên, gây đức tính
tự tin để tránh tính ỷ lại. Muốn
Ðội/Chúng tiến mạnh, người Ðội/Chúng
Trưởng phải khéo léo tận dụng
khả năng đến mức tối đa của từng
cá nhân trong Ðội/Chúng của mình.
VII. Liên Lạc
Muốn công việc của Ðội/Chúng
được điều hòa, người Ðội/Chúng
Trưởng cần phải liên lạc với
Ðội sinh/Chúng viên của mình thật
chặt chẽ trên mọi lãnh vực hoạt
động. Sự sinh hoạt của Ðội/Chúng
có mạnh hay không là do thiện chí
của tất cả. Người Ðội/Chúng
Trưởng phải luôn luôn tìm hiểu
rõ nguyên nhân và lý do vắng mặt
của Ðội sinh/Chúng viên trong những buổi
sinh hoạt. Việc viếng thăm chẳng những
trong lúc đau ốm mà phải thường
xuyên để gây tình thương yêu
đồng đội, tương trợ, tương
ái và xây dựng cho nhau. Ðội/Chúng
Trưởng cũng cần thường xuyên liên
lạc với anh chị Trưởng để bàn
luận những công việc sinh hoạt của Ðoàn,
Ðội/Chúng.
VIII. Kết luận
Bất luận nghề nào cũng
có vinh, có nhục. Ðã bước
chân vào nghề Ðội/Chúng Trưởng
ta phải hiểu rằng: Ðội/Chúng Trưởng
là một trách nhiệm thiêng liêng và
cao cả nhất của đời Phật tử. Làm
chủ tinh thần của một nhóm đó là
niềm sung sướng vô biên cho tinh thần
cá nhân mình. Người Ðội/Chúng
Trưởng cần phải cố gắng chịu đựng,
nhẫn nại, hy sinh, luôn luôn trau dồi nghề
nghiệp, vui buồn theo sự thăng trầm của Ðội/Chúng
mình và luôn luôn trung thành với
lý tưởng. Ðội/Chúng Trưởng
giỏi thì Ðoàn tiến, Ðoàn tiến
thì Gia đình vững, Gia đình vững
là tổ chức chúng ta mạnh. Ðội/Chúng
Trưởng là những viên gạch đã
được nung đúc, trui rèn để xây
dựng nền móng cho tòa lâu đài
Phật tử ngày mai.
Tinh
Thần Ðồng Ðội
Một đoàn quân dù
vũ khí tối tân, chiến thuật tinh vi nhưng
thiếu tinh thần chiến đấu thì chắc
chắc thất bại. Một đội banh ra quân,
mà nội bộ lủng củng có chuyện bất
hòa thì làm sao thủ thắng được?
Phải có tinh thần đoàn kết nhất
trí. Ðội của anh sa sút, Chúng của
chị buồn rầu, có thi đua thì bao giờ
cũng thua - thì chắc chắn thiếu mất
cái tinh thần đồng đội. Vậy, tinh thần
đồng đội là ý chí đoàn
kết nhất trí của tất cả mọi
người cùng hướng về mục đích
xây dựng.
I. Làm thế nào để
có tinh thần đồng đội
-
Luôn luôn nêu cao uy tín
của đội: Với một Ðội sinh/Chúng
viên mới, kể cho họ nghe quá trình
và truyền thống của Ðội/Chúng,
để họ biết Ðội/Chúng mà họ
đang sống rất chính đáng. Với
các bạn, luôn luôn nhắc nhở từ
sắc phục, cử chỉ, nhôn ngữ... đều
có thể làm cho Ðội/Chúng bị phạt
hay làm mất danh dự của Ðội/Chúng.
Bài ca chính thức của Ðội/Chúng,
cờ Ðội/Chúng... phải được luôn
luôn nhắc nhở và sử dụng đúng
lúc. Có thể cảnh tỉnh mọi người
bằng cách gây ý thức ta phải vì
Ðội/Chúng, với Ðội/Chúng và
cho Ðội/Chúng. Ví dụ: Ðội Ca-tỳ-la
là Ðội của con người trẻ, hùng,
thắng không kiêu, bại không nản; từ
xưa đến nay chưa có một Chúng
viên nào đứng trước khó khăn
mà lại lùi bước bao giờ; hay Ðội
sinh/Chúng viên nào làm mất danh dự
và uy tín của Ðội/Chúng là đắc
tội với mọi nguời...v.v.
-
Tạo tình thân mật giữa
các Ðội sinh/Chúng viên: Phải nhớ
là "Gia Ðình Phật Tử là xứ
sở của tình thương". Ðội không
thể sống, Chúng không thể tồn tại
nếu thiếu ttình thương. Ðội/Chúng
Trưởng phải tìm cách cho các Ðội
sinh/Chúng viên có cơ hội gặp gỡ
nhau luôn, từ việc học hành thi cử
đến thăm hỏi kết bạn. Khi tất cả
hiểu nhau, mến nhau thì việc gì lại không
làm được? Ðội/Chúng xích
mích, gây gổ nhau luôn là sự thường
nhưng phải thương nhau thì mới sống
đời với nhau được, và có
thương nhau thì mới dìu dắt nhau
tu học và làm việc cho Ðội/Chúng
mạnh tiến. Làm cách nào cho mọi
người trong Ðội/Chúng coi nhau như anh,
em, bạn bè thì mọi việc khó khăn
đến đâu cũng thành dễ. Khi có
người đau ốm, lúc hữu sự, phải
gần nhau và giúp đỡ cho nhau. Ðội/Chúng
Trưởng thường bị cô độc,
nếu không sống gần gũi với các
bạn mình.
-
Mọi việc đều có tổ
chức: Người Ðội/Chúng Trưởng
cần nắm vững tình hình của Ðội/Chúng
và của từng cá nhân Ðội sinh/Chúng
viên để dễ dàng sắp xếp công
việc, phân chia nhiệm vụ nhằm tránh mọi
sự khủng hoảng, xích mích, hay dẫm
chân lên nhau khi làm bất cứ một
công việc gì. Cần phải có kế hoạch
rõ ràng, thực hiện theo từng bước
một và sau mỗi lần như vậy cùng
ngồi lại để kiểm điểm và tìm
ra những phương hướng thích hợp
để phát triển Ðội/Chúng.
-
Ðội/Chúng phải luôn
luôn vui vẻ để hấp dẫn mọi người:
Ðội nào hùng hồn, Chúng nào ca
hát vang trời, làm việc thật hăng say,
là làm cho các chú Oanh Vũ thèm
lên sống với các anh chị lắm đấy.
Nên nhớ, ai cũng cần có niềm vui để
sống yêu đời. Hạn chế tối đa các
việc gây gỗ, trể hẹn, thất hứa, thiếu
thành thật. Nhưng cũng cần chú ý
đừng để cuộc vui quá lố và nên
để cho tất cả cùng vui bằng những
lần đi ăn, xem phim chung...v.v. Ðừng họp
chỗ tối, ngồi quá lâu làm mệt mõi,
dễ buồn chán, tránh sự làm việc
đều đều tuần nào cũng như tuần
ấy. Sinh hoạt Ðội/Chúng phải thật
hoạt náo, chạy nhảy, ca hát thật
to, quay vòng tròn thật nhanh lẹ và trò
chơi vui thú là những yếu tố tạo
sự chú ý và hấp dẫn mọi
người.
-
Công bằng và thực tâm:
Ðội/Chúng Trưởng phải cố gắng
thực hiện công bằng với mọi người.
Sự bất công là mầm móng khiến
Ðội sinh/Chúng viên bỏ Ðội/Chúng
đấy. Thương mến như nhau, xử
sự đẹp với nhau và phải nhớ rằng
muốn sống đời với nhau, Ðội/Chúng
Trưởng phải:
-
Nghĩ đến tánh tốt của
nhau
-
Thương mến nhau
-
Thành thật, không bao giờ
giả dối
-
Tha thứ
-
Kỷ luật: Trong một Ðội/Chúng,
tinh thần kỷ luật là điều quan trọng
cần phải luôn nhắc đến dựa trên
tinh thần căn bản của giáo lý Phật
giáo, một nền giáo dục chú trọng
nhiều về tình thương và sự
cảm hóa. Người Ðội/Chúng Trưởng
có nhiệm vụ đôn đốc, hướng
dẫn các Ðội sinh/Chúng viên tinh thần
kỷ luật tự giác đúng mức, gây
ý thức về sự liên hệ giữa danh
dự và kỷ luật, hết sức tế nhị
và khéo léo giúp các em tự nhận
lỗi lầm và sám hối. Ðiều này
đỏi hỏi người Ðội/Chúng trưởng
phải hiểu rõ tâm lý của từng Ðội
sinh/Chúng viên để sự áp dụng
kỷ luật được phù hợp và có
hiệu quả tốt đẹp.
II. Kết luận
Tóm lại, nếu Ðội/Chúng
một lòng, một dạ thì dù đào
núi, lấp sông cũng không phải là
chuyện khó, khắc phục mọi khó khăn
để bảo vệ cho kỳ được tinh thần
đồng đội. Ðội/Chúng là hình
thức, tinh thần là cốt yếu để dìu
dắt Ðội/Chúng của mình.
Hiểu
Mình, Hiểu Bạn
"Biết mình, biết người,
trăm trận trăm thắng". Chiến thắng của
người Phật tử là sự cố gắng
vượt mọi khó khăn, sự khéo
léo trong thiên chức để thành công
trong sứ mạng xây dựng và phát
triển Tổ chức. Nền giáo dục của
Gia Ðình Phật Tử dựa trên căn
bản giáo lý Phật Ðà, phương
pháp giáo dục chú trọng đến
sự hướng dẫn những sinh hoạt tâm
linh của con người. Bởi vậy là người
đã nhận lãnh trọng trách hướng
dẫn giáo dục, muốn hoàn thành sứ
mạng cần hiểu được mình, hiểu
được bạn. Vấn đề hiểu mình
hiểu bạn được đặt ra như một
điều cần thiết cho người điều khiển.
I. Hiểu Mình
-
Ai có thể dám quyết đoán
rằng mình hiểu được hoàn toàn
con người mình? Con người là một
vũ trụ tí hon trong cái vũ trụ
rộng lớn. Con người lại chứa một
nội tâm phúc tạp luôn luôn đối
nghịch, mâu thuẩn. Với sự phát
triển của khoa học kỹ thuật hiện đại,
con người có thể và làm chủ được
ngay cả những sức mạnh bí tàng của
vũ trụ mà vẫn chưa hiểu đuợc
và làm chủ được chính mình.
Nói thế, chúng ta thấy được cái
phức tạp, mâu thuẩn đối nghịch
thường trực trong con người chúng ta.
Nói thế không có nghĩa là chúng
ta bất lực hoàn toàn không mãy
may gì biết đến con người của mình.
trên phương diện tương đối,
con người có thể và cố gắng hiểu
được những gì trong phạm vi khả
năng của mình. Là Ðội/Chúng Trưởng,
trước tiên em phải hiểu được
khả năng của mình, biết được
những điều mình biết, những điều
mình chưa biết. Những điều biết
thì cố gắng phát triển, điều chưa
biết thì cố gắng tìm tòi, học
hỏi. hãy xóa bỏ tính tự phụ,
tự mãn ở trong các em, vì chính
nó là chướng ngại vật trên
đường tiến thủ của em. Phải luôn
luôn thấy mình kém để cố gắng.
Triết gia lừng danh thế giới Socrate đã
từng nói "điều mà tôi biết nhiều
nhất, chính là điều mà tôi
không biết gì". Phải có cái tinh thần
của Socrate mới tiến bộ được. Nhưng
điều quan trọng là mình biết được
cái không hoàn toàn đó. Biết
là nói biết, không biết là nói
không biết, như thế là đã biết
rồi vậy.
II. Hiểu Bạn
Hiểu bạn trong phạm vi này,
tức là đặt thành vấn đề
hiểu rõ khả năng tâm lý của Ðội
sinh/Chúng viên. Hiểu mình đã khó,
hiểu bạn lại càng khó hơn, em phải
là người quán xuyến, hiểu rõ khả
năng và tâm lý của mỗi Ðội
sinh/Chúng viên.
-
Khả năng: Lúc đức Phật
chứng được quả, tìm được
chân lý cứu độ chúng sanh, Ngài
phân vân không biết trình độ của
chúng sinh có thể hiểu đuợc giáo
lý cao siêu của Ngài không, phân vân
mãi đến khi Ngài nhìn xuống một
hồ sen, Ngài thấy trong hồ có những
hoa sen đã vươn lên khỏi mặt nước,
có hoa đang lấp ló, có hoa đang chìm
sâu dưới bùn, trình độ của
chúng sinh cũng có những cấp bậc
như vậy, và Ngài đã tùy theo
căn cơ, trình độ để truyền
những giáo pháp của Ngài. Trong Ðội/Chúng
của em cũng vậy, tuy chỉ 6 đến 8 em, nhưng
trình độ hiểu biết cũng như khả
năng phục vụ không giống nhau, đòi
hỏi ở em sự quán xuyến, biết được
trình độ khả năng để sự phân
công phù hợp và sự hướng
dẫn có hiệu quả.
-
Tâm lý: Tâm lý thực
dụng của ngành Thiếu: tìm hiểu tâm
lý của Thiếu nam, thiếu nữ như đi
vào một thế giới mới lạ, kỳ
ảo, rộng mênh mông. Trước hết,
tuổi thiếu niên, thiếu nữ là tuổi
của sống động, của hăng say, bồng bột,
tuổi của hào hùng, cuộc sống huớng
ngoại nhiều hơn là hướng nội.
Thích tham gia vào hoạt động xã hội,
thể thao... tính hăng hái trong công việc
đưa đến tính háo thắng, một
đức tính cần thiết trong sự thi đua,
nhưng nếu em không khéo léo sẽ đưa
đến sự ganh tỵ giữa các Ðội
sinh/Chúng viên, là điều cần tránh.
Thiếu nam, thiếu nữ là
tuổi của thời kỳ phát triển cơ
thể về mọi mặt, từ thể chất đến
tinh thần, tâm lý các em biến đổi
đột ngột. Ở tuổi dậy thì, tâm
lý các em hết sức phức tạp, có
những đam mê kỳ lạ. Theo Pierre Menhousse,
thì tuổi thiếu niên ham mê hoạt động
đến nỗi quên cả sự mệt nhọc,
vì một điều không đâu hoặc
có thật, hoặc tưởng tượng, các
em có thể cười say sưa, vui sống, nhưng
cũng có thể buồn khóc vô cớ. Các
em thường có tính ích kỷ, tự
đắc, tự đề cao cá nhân mình,
tôn trọng danh dự và cũng nhiều
tự ái, dễ chán nản, lắm hoài
nghi, hoài nghi luôn cả chính mình. Tính
tình biến đổi luôn, lúc thì
ham mê hoạt động, thích sống tập
thể, sợ cô đơn, hăng hái yêu
đời; khi thì buồn chán, muốn xa lánh
mọi người, thích sống trong một khung
cảnh hết sức quạnh hiu, cô độc.
Các em lại có tính tò mò, thích
tìm hiểu, phiêu lưu mạo hiểm, giàu
lòng thương, v.v.
Sự phân tích dưới
đây nhằm giúp người Ðội/Chúng
Trưởng hiểu rõ về những vấn
đề tâm lý căn bản ở lứa
tuổi thiếu niên và áp dụng vào
sinh hoạt Ðội/Chúng:
Thiếu Nam:
Bản Tính: Thích hoạt
động, thích phiêu lưu, mạo hiểm,
hăng hái, bồng bột, ít suy tư, thiên
về hướng ngoại, tò mò, có
nhiều sáng kiến.
Ðáp Ứng: Với những
tâm lý đó, em làm thế nào đáp
ứng được những đòi hỏi đựa
theo tâm lý của các em, với đôi
mắt quán xuyến, em biết được khả
năng, trình độ từng em, từ đó
phân chia công việc thế nào cho phù
hợp, hướng dẫn, giảng dạy đừng
vượt quá trình độ lãnh hội
của từng em; trong những buổi sinh hoạt
hàng tuần, em cố gắng đáp ứng những
sở thích của các Ðội sinh/Chúng
viên, thường xuyên thay đổi không
khí sinh hoạt của Ðội/Chúng bằng
những sáng kiến mới lạ có tính
cách giáo dục và lành mạnh. Phải
khuyến khích và để cho các em được
tự do phát triển sáng kiến của mình
v.v.
Thiếu Nữ:
Bản Tính: Trái với
thiếu nam, bản tính thiếu nữ thì dịu
dàng, đằm thắm, thùy mị, kín
đáo, nhiều ý tứ, nhiều trực
giác, có tinh thần chịu đựng, nhẫn
nại, giàu lòng vị tha, đa sầu, đa
cảm, thường rụt rè, e thẹn trước
đám đông, sống nhiều về nội
tâm, thích tham gia những công tác từ
thiện...
Ðáp ứng: Là Chúng
Trưởng, em phải hiểu rõ khả năng
của từng em để phân chia công việc sao
cho phù hợp để đạt thành quả
tốt đẹp, hiểu rõ trình độ lãnh
hội của từng người, công việc huớng
dẫn, giảng dạy mới có hiệu quả.
Với những tâm lý, bản tính được
nêu trên, Chúng Trưởng phải khéo
léo trong lúc điều khiển, hay khi áp
dụng kỷ luật. Những mẫu chuyện đạo
đượm tình cảm, tình nguời, những
khung cảnh thơ mộng, êm đềm trong sân
chùa, duới gốc cây bóng râm mát
thật thích hợp với lứa tuổi thiếu
nữ và giúp ích thật nhiều trong việc
giảng dạy các Chúng viên.
III. Kết Luận
Nhận lãnh trọng trách
hướng dẫn các Ðội sinh/Chúng
viên trên bước đường tu học,
Ðội/Chúng trưởng phải hiểu mình,
hiểu Ðoàn sinh mình, hiểu rõ về
khả năng, trình độ, tâm lý, về
những khát khao, ước muốn trong phạm
vi sinh hoạt, đáp ứng được những
đặc điểm trên là phân nhiệm công
việc thập phù hợp với khả năng,
hướng dẫn phù hợp với trình
độ lãnh hội tức là em đã
hoàn thành được phần nào sứ
mạnh của người Ðội/Chúng Trưởng
rồi.
Ðội/Chúng
Tự Trị
Ðội/Chúng tự trị
là một phương pháp giáo dục
hữu hiệu để cải thiện đức tính,
áp dụng trong phạm vi sinh hoạt của một
đơn vị ngành Thiếu. Tinh thần căn
bản của nó là tạo cho mỗi người
biết tự mình góp sức vào việc
xây dựng một Ðội, một Chúng.
Tự mỗi người ý thức được
rằng mình là một phần tử không
thể thiếu được của Ðội/Chúng,
luôn cố gắng trở nên tốt đẹp
để Ðội/Chúng vững mạnh.
I. Ứng dụng
Các Ðội/Chúng Trưởng
dùng tinh thần căn bản của Ðội/Chúng
Trưởng để xây dựng một tình
thương ruột thịt trong đơn vị
của mình, tạo cho toàn thể ý thức
tự cường, tự chủ. Công trình
nầy cần nhiều ngày, nhiều tháng, có
khi nhiều năm, nuôi dưỡng và huân
tập mới thành tựu.
Trước tiên, điều
cần thiết là các Ðội/Chúng Trưởng
phải có được những buổi họp
tự trị ngoài các buổi họp Ðoàn.
Huynh Trưởng có thể góp ý kiến
với các em nhưng chính yếu các em
tự hoạch định những chương trình
sinh hoạt cho Ðội/Chúng dựa vào chương
trình sinh hoạt của Ðoàn. Các em cũng
có những buổi lễ thuộc Ðội/Chúng
riêng biệt, tự tổ chức những buổi
lễ cầu an, cầu siêu hay liên hoan cho Ðội/Chúng
của mình hay những buổi du ngoạn, cắm
trại của Ngành, của Ðội/Chúng
với sự chấp thuận của Ban Huynh Trưởng.
Một cơ cấu có tổ
chức phải biết phân công hợp lý
mọi việc để cùng tạo một mức
tiến liên tục của xã hội tí
hon của mình trong nếp sống sinh hoạt Ðội/Chúng.
Khi đó, các em không còn bở ngỡ
mà góp lại thành Ðoàn, thành
Gia Ðình, sẽ tạo nên sức sống mạnh
mẽ, vững chắc cho phong trào.
Muốn tạo được những
điều kiện cần thiết ấy, Ðội/Chúng
Trưởng phải biết tổ chức Ðội/Chúng
mình thành một xã hội nho nhỏ, biết
điều hợp cho hoạt động Ðội/Chúng
cùng tiến với nhịp đi của Ðoàn
mà vẫn có sắc thái riêng.
II. Tổ Chức Ðội Chúng
-
Ðội/Chúng: Các em được
giao phó một nhóm người nhỏ để
điều khiển gọi là Ðội/Chúng,
những người này khi gia nhập vào Gia
Ðình thì đã trở thành anh em
hay chị em với các em. Em có bổn phận
kết thân và hướng dẫn theo sự
chỉ bày của Huynh Trưởng để cùng
nhau học hỏi, hướng thiện. Như vậy,
chúng ta gọi Ðội hay Chúng là một
đơn vị hoạt động của ngành
Thiếu trong đó có từ 6 đến 8 anh
em/chị em biết hòa kính, thương yêu
và liên hệ với nhau như những bộ
phận của cơ thể.
-
Ðội sinh/Chúng viên: Những
người bạn cùng sinh hoạt trong Ðội/Chúng
của các em do Huynh Trưởng giới thiệu
đến, đưa ở Oanh Vũ lên và
chính bạn bè của các em bên ngoài
do chính các em xin các anh chị Trưởng,
bác Gia Trưởng đem vào.
-
Phân chia công việc: Khi có
đông một số anh chị em rồi, Ðội/Chúng
Trưởng phải phân chia công việc cho họ
cùng làm, hướng dẫn hay giúp Huynh
Trưởng hướng dẫn cho họ cùng
học. Trong sinh hoạt tự trị, Ðội/Chúng,
điều kỵ nhất là ôm việc, cái
gì các em cũng làm, cũng lo, bạn
của các em sẽ buồn chán và bỏ em
tức khắc. Ai ôm nhiều thì rớt nhiều.
Tuy vậy, phân chia công việc hợp khả năng,
hợp lý là cả vấn đề khó
khăn. Phần nầy trong bài "Nghề Ðội/Chúng
Trưởng", các em đã thấy phải
hiểu biết từng Ðội sinh/Chúng viên,
qua điều khiển, huớng dẫn và chia việc
cho đúng.
III. Hành chánh và sổ
sách Ðội/Chúng
-
Liên lạc: Các em có một
cấp liên lạc lên trực tiếp với
Ðoàn. Liên lạc trực tiếp với
anh chị Trưởng là việc riêng của
em, trong phạm vi liên lạc hành chánh,
mọi việc đều phải có giấy tờ.
Thí dụ: Khi tổ chức
một buổi du ngoạn hay trại Ðội/Chúng,
các em phải làm đơn xin phép, lập
chương trình, chọn địa điểm,
v.v... và các yếu tố này cần phải
được xin phép và thông báo trước
thời gian tổ chức ít nhất là 3
tháng.
Ði xuống, các em trực
tiếp với Ðội sinh/Chúng viên và
ngoài ra các em còn cần phải liên lạc
với phụ huynh của các em Ðội sinh/Chúng
viên của mình. Việc thực hiện những
loại sổ sách thông dụng cho Ðội/Chúng
rất quan trọng và cần thiết để giúp
các em theo dõi và thực hiện những
kế hoạch của Ðội/Chúng có tổ
chức, theo trình tự để đạt kết
quả mỹ mãn.
-
Sổ sách Ðội/Chúng:
-
Ðội Phả, Chúng Phả: Gồm
2 phần, phần đầu là danh sách tất
cả Ðội sinh/Chúng viên theo thứ tự
thời gian vào Ðoàn, tạm gọi là
lý lịch trích ngang (hình-1)
Phần còn lại là phần
chi tiết của lý lịch trích dọc gồm
2 mục: Bản thân, sinh hoạt Gia Ðình
Phật Tử: (hình-2)
-
Nhật ký Ðội/Chúng:
Một cuốn sổ ghi chép, tường thuật
những buổi sinh hoạt đặc biệt của
Ðội/Chúng như các cuộc trại
Ðội/Chúng tự trị cũng như các
lễ lượt của Ðội/Chúng... ý
kiến của khách viếng thăm Ðội/Chúng
cũng được ghi vào đây.
-
Sổ Ðiểm danh: (hình-3)
-
Sổ Biên bản:
-
Sổ Chi, Thu:
-
Sổ Khí mãnh: Phần khí
mãnh ghi tất cả dụng cụ sở hữu
của Ðội/Chúng, số lượng, trị
giá, ngày thu nhận, tình trạng lúc
thu nhận, do buổi họp ngày nào giám
định và quyết định... (hình-4).
III. Hoạt động Ðội/Chúng
-
Học tập cho Ðội/Chúng:
Học tập là việc trước nhất.
Trong Ðội/Chúng có nhiều bậc học.
Bổn phận của các em là phải ưu
tiên:
-
Hướng dẫn bậc Hướng
Thiện cho các em mới, bày vẽ cho các
bạn quy cũ của Gia Ðình. Riêng Phật
Pháp thì do Huynh trưởng hướng
dẫn hoặc Tăng Ni.
-
Ngoài bậc Hướng Thiện
ra, những bậc khác do Huynh Trưởng trực
tiếp giảng dạy, nhưng các em phải giúp
nhau tìm hiểu thêm, hoặc ôn lại cho
tất cả thâu đạt như nhau để
khỏi quên hoặc nhầm lẫn. Mỗi buổi
họp Ðội/Chúng đều có học
tập. Dù có người có khả năng
làm giảng viên, nhưng Ðội/Chúng
Trưởng phải cung cấp tài liệu cho họ,
và phải biết học sẽ nói gì (đúng
hay không) trước khi họ phát biểu.
-
Sinh hoạt giải trí: Ngoài
việc tu học, các em có thể tổ chức
những cuộc du ngoạn, những buổi trại
cho Ðội/Chúng v.v. Tất cả phải được
trình với Ban Huynh Trưởng với đầy
đủ những chi tiết của dự án tổ
chức.
-
Hoạt động xã hội:
Các hoạt động mang tính cách xã
hội mà Ðội/Chúng có thể tổ
chức và thực hiện được như
tương tế: Chia nhóm học tập, tổ
chức cầu an khi có Ðội sinh/Chúng viên
hoặc thân nhân đau yếu, các hội
thể thao, v.v. Tổ chức luân phiên thăm
viếng gia đình của các Ðội sinh/Chúng
viên vào các dịp lễ nghĩ hè
hoặc Tết để tạo mối liên lạc
mật thiết, tin yêu giữa Ðội/Chúng
và gia đình.
Hình
Thức và Hiệu Lệnh Tập Họp
Qua sự tập họp của Ðội/Chúng
người ta có thể nhận định được
một phần nào nếp sinh hoạt của các
em nên cần phải nhanh chóng và có hình
thức. Do vậy, người Ðội/Chúng Trưởng
phải hiểu rõ những hình thức và
hiệu lệnh tập họp, hướng dẫn Ðội
sinh/Chúng viên trong Ðoàn biết để
những lúc cần, người Ðội/Chúng
Trưởng chỉ sử dụng những phương
pháp tập họp bằng còi, miệng, tay, chuông
hay đèn ra hiệu lệnh thì Ðội/Chúng
phải biết tuân theo nhanh chóng và có
trật tự.
I. Hình Thức Tập Họp
Hình thức tập họp gồm:
-
Các thế cá nhân:
-
Thế nghiêm: Ðứng thẳng,
hai tay thẳng theo mình, gót chân chạm
vào nhau, hai bàn chân giang ra thành hình
chữ V với góc độ 60.
-
Thế nghỉ: Chân phải đứng
nguyên tại chỗ, chân trái giang ra độ
khoảng 30 cm, hai tay để sau lưng (Ngành Nữ
thì hai tay khoanh trước ngực) và giữ
im lặng.
-
Thế nghỉ tự do: Như thế
nghỉ thường nhưng có thể nói chuyện
nho nhỏ.
-
Thế nghỉ có gậy: Ðứng
thế nghỉ, tay phải nắm gậy đưa thẳng
ra theo vai.
-
Thế chào: Ðứng thẳng
như thế nghiêm, tay bắt ấn kiết tường.
-
Thế chào có gậy: Ðứng
thẳng như thế nghiêm, tay trái đưa
ngang bụng nắm lấy gậy và tay phải
bắt ấn kiết tường.
-
Cách xếp hàng:
Gồm hai phần:
-
Dự lệnh: Là lệnh ra trước
để Ðoàn sinh chú ý chuẩn bị
-
Ðộng lệnh: Là lệnh để
cho Ðoàn sinh thi hành ngay một động
tác.
Hiệu lệnh cần phải dễ phân
biệt và được giải thích rõ
ràng cho mọi người trước khi phát
lệnh.
Sau đây là các hình
thức hiệu lệnh thông dụng, tuy nhiên
nếu cần, các em có thể sáng tạo
nhiều hình thức hiệu lệnh khác.
-
Còi lệnh: Hiệu còi dùng
để cho Ðoàn sinh chú ý chạy đến
trước khi dùng thủ lệnh trong các buổi
họp đoàn, những khi cắm trại hay du
ngoạn, v.v. Người phát lệnh sử dụng
còi với những tính hiệu tích, tè
(Morse).
-
Khẩu lệnh: cũng có Dự
lệnh và Ðộng lệnh. Dự lệnh: nói
trước cho Ðoàn sinh biết những động
tác gì sẽ phải thi hành; dự lệnh
phát ra phải chậm rãi và rõ ràng.
Ðộng lệnh phát ra để Ðoàn sinh
thi hành ngay một động tác; động
lệnh thường phát ra phải mạnh mẽ
và rõ ràng.
-
Thủ lệnh: Ðuợc phát ra
theo khẩu lệnh hay còi lệnh gồm các động
tác:
Tập họp một hàng
dọc: Người điều
khiển đưa thẳng cánh tay ra đằng trước,
cánh tay quá đầu một chút, bàn
tay nắm lại và ngón trỏ đưa lên
(xem hình).
Tập họp nhiều hàng
dọc: Người điều
khiển đưa thẳng cánh tay ra đằng trước,
cánh tay quá đầu một chút, bàn
tay nắm lại và đưa hai, ba hay bốn ngón
tay ra hiệu tùy thuộc số hàng mình
muốn (xem hình).
Tập họp hàng ngang: Người
điều khiển đưa thẳng cánh tay ra phải
ngang vai, bàn tay nắm lại.
Tập họp hình rẻ quạt:
Người điều khiển đưa thẳng cánh
tay lên phía trên thành hình chữ
V góc độ 60, bàn tay nắm lại.
Tập họp hình chữ
U: Người điều khiển
đưa cánh tay phải ngang vai tạo thành
góc độ 90 bàn tay nắm lại.
Tập họp hình chữ
nhật: Người điều
khiển đưa hai cánh tay ra ngang vai, tạo thành
góc độ 90, bàn tay nắm lại.
Tập họp hình bán
nguyệt: Người điều
khiển đưa hai cánh tay phải lên phía
trên đầu, tạo dáng của một vòng
cung, bàn tay nắm lại.
GÐPTVN
Hải Ngoại | Thư
Viện Lam | Anoma
- Ni Liên