-
Bổn sư là vị thầy
cội gốc đem đạo Phật đến cho chúng
sanh và chỉ dạy chúng sanh con đường
giải thoát giác ngộ. Ðây chỉ đức
Phật Thích Ca Mâu Ni, vì nhờ Ngài
mà chúng ta được hiểu biết đạo
Phật.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni Phật là xin đem cả thân mạng
y chỉ, quy ngưỡng đức Thích Ca, nguyện
cung kính lễ bái ngài, nguyện Ngài
cứu độ cho mình thoát khỏi các
sự đau khổ mê lầm.
II. NAM Mô A DI ÐÀ PHẬT
Là xin đem cả thân mạng
quy ngưỡng lễ bái đức Phật A Di
Ðà, và nguyện nhờ Ngài cứu độ.
III. NAM Mô ÐƯƠNG
LAI Hạ SANH DI LẶC TôN PHẬT
Ðương Lai:
là sẽ đến. Hạ sanh: là giáng
xuống cõi Ta bà này. Di Lặc Tôn
Phật: tức đức Phật Di Lặc sẽ
giáng sanh xuống cõi Ta bà này sau đức
Phật Thích Ca. Di Lặc có hai nghĩa: Từ
thị: tức là một vị có lòng
thương rộng lớn. Vô năng thắng:
tức là có trí huệ từ bi thù
thắng không ai sánh kịp. Ðức Di Lặc
là gương sáng của hạnh hỷ xả.
IV. NAM Mô VĂN THÙ
SƯ LợI Bồ TÁT
Văn Thù Sư Lợi là
vị Bồ Tát có trí huệ đệ nhất
thường cưỡi con sư tử tượng
trưng cho sức mạnh trí huệ soi sáng
và uốn dẹp các tối tăm mê lầm.
Văn Thù là gương sáng của
hạnh trí huệ.
V. NAM Mô ÐạI HạNH
PHỔ HIỀN Bồ TÁT
Ðại Hạnh: là
những hành động vĩ đại, cao siêu,
khác thường, ít người làm nổi.
Phổ
Hiền: là vị Bồ-tát có những
hạnh nguyện vĩ đại cứu độ
cho mọi loài, thường hầu bên tay phải
đức Phật Thích Ca và hay cưỡi
con voi trắng 6 ngà tượng trưng cho sức
mạnh các hạnh nghiệp vị tha rộng lớn.
Vi. NAM Mô ÐạI BI QUÁN
THẾ ÂM Bồ TÁT
Ðại bi: là có
lòng từ bi rộng lớn cứu độ cho
tất cả chúng sanh. Quán Thế Âm:
là vị Bồ tát quán xét tiếng
kêu đau khổ của chúng sanh mà đến
hóa độ. Ngài là gương sáng
của hạnh từ bi.
VII. NAM Mô LINH SƠN HộI
THƯợNG PHẬT Bồ TÁT
Linh Sơn: là hòn
núi Kỳ Xà Quật ở Ấn Ðộ một
chỗ đức Phật thường hay thuyết pháp.
Hội
thượng: là chúng hội nghe Pháp,
gồm các vị Bồ tát Ðại đệ
tử nên xưng là Hội Thượng,
đây chỉ cho các Ðức Phật, các
vị Bồ Tát, các vị Ðại đệ
tử hội họp trên núi Linh Sơn nghe
đức Phật Thích Ca thuyết pháp.
B. BÀI MƯỜI
PHƯƠNG PHẬT BA ÐỜI
Bài này tán thán
đức Phật A Di Ðà, phát nguyện vãng
sanh qua nước Cực Lạc và nguyện tu
học để cứu độ chúng sanh.
-
Mười phương Phật
ba đời: là tất cả đức Phật
trong 10 phương ở hiện tại, quá khứ
và vị lai.
-
A Di Ðà bậc nhất:
là đức Phật A Di Ðà hơn hết
không có đức Phật nào bằng, ý
nói tu theo đức Phật A Di Ðà thì
mau chứng quả hơn hết.
-
Chín phẩm độ chúng
sanh: chín phẩm là chín từng
bậc; căn tánh chúng sanh cao thấp khác
nhau, nên vãng sanh qua nước Cực Lạc
đạt đến những phẩm bậc sai khác
nhau. Chín phẩm là hạ hạ, hạ
trung, hạ thượng; Trung hạ, trung trung, trung
thượng; Thượng hạ, thượng trung,
thượng thượng. Ý nói đức
Phật A Di Ðà tùy theo căn tánh chúng
sanh mà độ tất cả mọi loài vãng
sanh qua nước Cực Lạc, đạt đến
những phẩm bậc sai khác nhau.
-
Oai đức không cùng
cực: Oai là cử chỉ oai nghi nghiêm
trang khiến mọi người kính nể. Ðức
là đức hạnh. Oai đức của A Di
Ðà vô cùng tận không thể so sánh
ước lượng được.
-
Ðệ tử nguyện quy y:
Ðệ tử phát nguyện xin quy y đức Phật
A Di Ðà.
-
Sám hối ba nghiệp tội:
Xin sám hối tất cả những tộI lỗi
về thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý
nghiệp.
-
Phàm được bao phước
thiện: là phàm có làm bao nhiêu
việc phước đức thiện sự.
-
Chí tâm nguyện hồi hướng:
Thành tâm khẩn thiết nguyện xin hồi hướng
công đức đã làm trên.
-
Nguyện cùng người niệm
Phật: Nguyện cùng đồng với người
niệm Phật.
-
Cảm ứng hiện theo cảm:Cảm:
là những việc làm của mình, có
sức mạnh ảnh hưởng đến xung quanh.
Ứng:
là theo sức mạnh cảm thông
ấy,
xung quanh ứng đối lại. Như nói là
cảm, tiếng vang dội lại là ứng. Ðây
nói do lòng thành niệm Phật của mình
(cảm) mà cảnh tịnh độ hiện ra trước
mắt (ứng). Sự cảm ứng hiện ra tùy
theo mình phát tâm niệm Phật.
-
Lâm chung cảnh Tây phương:
Khi gần chết cảnh Cực Lạc ở phương
Tây.
-
Rõ ràng bày trước
mặt: Hiện ra rõ ràng bày trước
mặt mình.
-
Thấy nghe đều tinh tấn:
Khiến cho mọi người thấy và nghe,
đều phát tâm tinh tấn niệm Phật.
-
Ðồng sanh nước Cực
Lạc: Cực Lạc là cảnh giới
hết sức sung sướng đẹp đẽ của
đức Phật A Di Ðà phương Tây.
Người niệm Phật và mình đều
cùng nhau được vãng sanh qua nước
Cực Lạc.
-
Thấy Phật thoát sinh tử:
Thấy được đức Phật, liền thoát
sự luân hồi sống chết; vì một khi
được sanh qua nước Cực Lạc,
thì không còn phải sống chết nữa.
-
Như Phật độ hết
thảy: Theo như thệ nguyện của chư
Phật mà cứu độ cho tất cả chúng
sanh.
-
Ðoạn vô biên phiền
não: là đoạn trừ tất cả
tánh phiền não tham sân si không ngần,
không bờ bến.
-
Tu vô lượng pháp
môn: là tu tập những pháp vô
lượng.
-
Thệ nguyện độ chúng
sanh: Xin thệ và phát nguyện cứu độ
hết thảy chúng sanh.
-
Ðều trọn thành Phật
đạo: Hết thảy chúng sanh đều
chứng quả thành Phật.
C. BốN
LỜI NGUYệN RộNG LỚN
-
Chúng sanh không số lượng,
thệ nguyện đều độ khắp: Thệ
nguyện xin cứu độ tất cả chúng
sanh số lượng nhiều không thể kể được.
Chúng sanh chỉ cho tất cả loài sinh mạng.
-
Phiền não không cùng
tận, thệ nguyện đều dứt sạch:
Thệ nguyện dứt sạch tất cả muôn
phiền não nhiều không cùng tận.
-
Pháp môn không kể xiết,
thệ nguyện đều tu học: Xin nguyện
tu và học tất cả những pháp môn
Phật dạy không thể kể xiết. Pháp
môn là chỉ những lời Phật dạy
không thể kể xiết. Pháp môn là chỉ
những lời Phật dạy có công năng
mở đưa mọi người vào cảnh
giới giải thoát.
-
Phật đạo không gì
hơn, thệ nguyện đều viên thành:
Xin nguyện thành tựu một cách viên
mãn quả vị Phật đạo cứu cánh.
D. CHÚ
VÃNG SANH
Chú là lời bí
mật bằng tiếng Phạn do chính đức
Phật nói ra, người thường không
thể hiểu và cắt nghĩa. Bài này
có công năng tiếp dẫn chúng sanh
qua nước Cực Lạc nên gọi là
chú vãng sanh.
Bạt nhứt thế nghiệp
chướng căn bản: Bạt là trừ,
nhổ tận gốc rễ hết thảy những về
thân, khẩu, ý làm chướng ngại
cho giải thoát, những nghiệp này làm
cội gốc phát sanh ra các nghiệp khác,
nên gọi là căn bản.
Ðắc sanh Tịnh Ðộ
Ðà-la-ni:Ðà-la-ni dịch tổng trì,
nghĩa là một pháp môn thâu nhiếp
các pháp môn khác. Bài chú vãng
sanh này là một pháp môn thâu nhiếp
hết thảy pháp môn khác, có công
năng dứt sạch các nghiệp chướng
căn bản khiến được vãng sanh qua
nước Cực Lạc.
E. BA TỰ QUY
Ba tự quy là tự quy y Phật,
tự quy y Pháp, tự quy y Tăng. Gọi là
tự nghĩa quy y Phật, Pháp, Tăng chung cùng
khắp cả pháp giới.
-
Tự quy y Phật, xin nguyện
chúng sanh, thể theo đạo cả, phát lòng
vô thượng: xin quy y Ðức Phật
cùng khắp pháp giới và xin nguyện
cùng với tất cả chúng sanh, thể theo
đạo cao siêu nhiệm mầu mà phát tâm
Bồ Ðề vô thượng.
-
Tự quy y Pháp, xin nguyện
chúng sanh, thấu rõ kinh tạng, trí tuệ
như biển: xin quy y với Pháp cùng
khắp Pháp giới và nguyện cùng tất
cả chúng sanh thấu rõ ba tạng kinh điển
được trí huệ rộng lớn, như
biển cả.
-
Tự quy y Tăng, xin nguyện
chúng sanh, quản lý đại chúng, hết
thảy không ngại: xin quy y với Tăng
cùng khắp pháp giới và nguyện cùng
tất cả chúng sanh, điều khiển coi sóc
toàn thể đại chúng hết thảy không
gì ngần ngại.
F. HồI
HƯỚNG CHÚNG SANH
Bài này trong kinh Pháp
Hoa, là lời nguyện đem công đức tu
hành tụng niệm trên của mình mà
hướng về ban bố cho toàn thể chúng
sanh tất cả đều được thành
Phật như mình.
-
Nguyện đem công đức
này: Công đức là những việc
có công năng tăng trưởng phước
đức cho mình, cho mọi người. Ðây
là nguyện xin đem tất cả công đức
tu hành tụng niệm phước sự của
mình.
-
Chung cùng khắp tất cả:
san sẻ chia khắp cho tất cả chúng sanh.
-
Ðệ tử và chúng
sanh: tất cả chúng sanh và chính
mình.
-
Ðều trọn thành Phật
đạo: tất cả đều viên mãn
thành tựu được chứng quả Phật.
(Phật Pháp
Ngành Thiếu; Thích Minh Châu, Thích Ðức
Tâm, Thích Thiện Ân, Thích Chân Trí)
Ðánh máy: Trúc Oanh,
GÐPT Từ Ân, Hoa Kỳ
Sơ
Thiện | Chương
Trình Tu Học | Thư
Viện Lam | Trang Chính
|