Lịch sử đạo Phật ở Việt Nam

I. TỪ THỜI ÐẠI DU NHẬP ÐẾN ÐỜI NHÀ LÝ

THỜI ÐẠI PHẬT GIÁO DU NHẬP

A. CON ÐƯỜNG TRUYỀN GIÁO CỦA ÐẠO PHẬT Ở ẤN ÐỘ

Phật giáo khởi điểm từ Ấn Ðộ rồi truyền rộng ra các nước lân cận, do hai đường thủy và bộ: về đường bộ thì qua miền Trung Á-Tế-Á như Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Hoa rồi từ Trung Hoa truyền qua các nước Cao Ly, Nhật Bản và Việt Nam. Về đường thủy thì qua đảo Tích Lan, Mã Lai, Nam Dương, Ðông Dương và Trung Hoa.

B. ÐỊA THẾ NƯỚC VIỆT NAM

Cương vực nước Việt Nam hết thảy bảy phần mười cõi Ðông dương. Người ta thường gọi chung là Ấn Ðộ Chi Na. Ấn Ðộ Chi Na là một bán đảo ở giữa biển Trung Hoa và vịnh Bangale, câu thành bởi mấy dãy núi, từ Tây Tạng chạy về miền Ðông nam đến biển thì xòe ra như hình rẻ quạt. Giữa những dãy núi ấy là những thung lũng, đầu thì hẹp rồI dần dần tỏa ra thành cao nguyên và bình nguyên. Những con sông lớn như Ménam, sông Khung hay sông Cửu Long và sông Nhị đều phát nguyên từ Tây Tạng chạy theo các thung lũng ấy, rồi bồi thành một dãy Trung Châu ở dọc bờ biển từ Bắc đến Nam quanh co như hình chữ S.

Cứ xét theo hình thế này, thì nước Việt Nam ta nằm giữa hai nước Ấn Ðộ và Trung Hoa nên đồng thời hấp thụ ảnh hưởng văn minh của cả hai nước láng giềng ấy, nhưng vì sao ngày nay riêng nước Việt Nam lại hoàn toàn chịu ảnh hưởng Trung Hoa. Còn Ai Lao và Cao Miên lại hoàn toàn chịu ảnh hưởng Ấn Ðộ? Chính vì do hai nguyên nhân sau đây:

1. Về phương tiện địa dư: Việt Nam kế cận vớI Trung Hoa, giữa hai nước ấy không có những trở ngại về địa thế; trái lại, đối với Ấn Ðộ, nước Việt Nam bị gián cách nhiều nước khác và đối với Ai Lao, Cao Miên, bị gián cách bởi dãy núi Trường Sơn.

2. Về phương diện lịch sử: Nước Việt Nam về thời bấy giờ hoàn toàn do người Tàu cai trị; trái lại, Ai Lao và Cao miên chỉ trực tiếp chịu ảnh hưởng thừa truyền của Xiêm, mà Xiêm lại là một nước hoàn toàn hấp thụ ảnh hưởng của Ấn Ðộ. Vả lại dân hai xứ Ai Lao và Cao Miên tuy chịu ảnh hưởng Ấn Ðộ nhiều hơn, nhưng vì dân hai xứ ấy không đủ khả năng truyền bá và khai hóa; trái lại, người Trung Hoa rất có khả năng thành thử hiện nay nước Việt Nam chịu ảnh hưởng văn minh của Trung Hoa nhiều hơn cả.

C. THỜI ÐẠI DU NHẬP

Thông thường người ta chỉ biết đạo Phật Việt Nam từ đời Ðinh. Nhưng xét ra đời Ðinh, Phật giáo đã được nhận làm quốc giáo và triều chính một phần lớn do các Tăng sĩ đảm đương. Như thế Phật giáo đến đờI Ðinh hẳn đã được thịnh đạt lắm rồi.

Dưới đây là những sử liệu về thời đại Phật giáo du nhập Việt Nam:

1. Những thiên truyện kỳ của các Tăng sĩ Việt Nam viết từ thế kỷ XIII và XIV có chép: "Chính đời nhà Hán thế kỷ thứ 2 và thứ 3 đã có các đạo sĩ ở Bắc như Ngài Ma-Ha-Kỳ. Vực (Marijivakạ). Khương Tăng Hội (K'ang Seng Houei) và Mâu Bác (Méou Pô) Ngài thì do đường thủy, Ngài thì do đường bộ, lần lượt đến truyền giáo ở Việt Nam.

2. Truyện Ðàm Thuyên Pháp sư có chép: Vua Cao Tổ nhà Tùy ngỏ ý cùng Pháp sư muốn dựng chùa xây tháp khắp đất Giao Châu (Quốc hiệu nước Việt Nam đời Bắc thuộc) để truyền bá đạo Phật. Nhưng Pháp sư trả lời: Cõi Giao Châu có đường thông sanh Thiên Trúc gần hơn ta. Khi Phật giáo chưa du nhập vào đất Gian Ðông này (Phật giáo tuy truyền vào Trung Quốc từ năm 67 sau Tây lịch kỷ nguyên, nhưng lâu về sau mới phổ cập tới Giang Ðông) mà cõi ấy đã xây được hơn 20 ngọn bảo tháp độ hơn 500 Tăng sĩ, dịch được hơn 15 bộ kinh rồi. Bây giờ có vị Ma-Ha-Kỳ-Vực, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương và Mâu Bác đến truyền đạo... Nay Ngài muốn bố thí một cách bình đẳng, phái chư Tăng sang truyền đạo, nhưng ở họ đã có đủ rồi, ta không cần phải sang nữa".

3. Sách Pháp vụ thực lục có chép: Vào hồi thế kỷ thứ III có một ông tên là Kaudra gốc ở Ấn Ðộ, dòng Brahmanes qua Giao Châu một lần với Ngài Ma Ha Kỳ Vực để truyền đạo.

Những sử liệu trên cho chúng ta rõ: Ðạo Phật Việt Nam không phải từ đời nhà Ðinh mà đã có từ đời nhà Hán bên Tàu (cuốI thế kỷ thứ 2 và đầu thế kỷ thứ 3) và những vị đến truyền giáo đầu tiên ở nước Việt Nam ta là Ngài Ma Ha Kỳ Vực, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương và Mâu Bác là người truyền Phật giáo đầu tiên ở đất Giao Châu vào năm 189 sau Tây lịch. Vậy ta có thể kết luận rằng: Phật giáo du nhập ở nước Việt Nam vào khoảng cuối thế kỷ thứ II vậy.

D. CÁC MÔN PHÁI ÐƯỢC DU NHẬP

Xét Phật giáo ở Việt Nam sau thời đại du nhập, phần nhiều chịu ảnh hưởng Phật giáo Trung Hoa nên bao nhiêu kinh điển tôn phái đều do Trung Hoa truyền đến. Những tôn phái được sùng chuộng hơn hết cả lúc bấy giờ là THuyền Tôn (Tôn tu thuyền trực chỉ) tôn này lại được truyền vào nước Việt Nam trước hết, do Ngài Tỳ-Ni-Ða-Lưu-Chi (Vinitaruci) truyền đến (580) và chính Ngài là Sư Tổ nước Việt Nam.. Sau lại có Ngài Pháp Hiền Thuyền sư được kế truyền và thành lập một phái.

  Ðến đời Ðường (820) lại có Ngài Vô Ngôn Thông ở Tàu sang truyền giáo, lập thành phái Thuyền Tôn thứ hai, rồi kế đó phái Thảo Ðường, Tào Ðộng, Lâm Tế v.v... lần lượt truyền đến Việt Nam. Xem thế, trước sau chỉ có phái Thuyền Tôn là gây ảnh hưởng mạnh hơn cả.

II. PHẬT GIÁO QUA CÁC TRIỀU ÐẠI:

A. PHẬT GIÁO ÐỜI HẬU LÝ NAM ÐẾ (571 đến 602)
VÀ ÐỜI BẮC THUỘC THỨ BA (603-939)

Từ khi Phật giáo truyền vào Việt Nam cho đến Tiền Lý Nam Ðế kể ra 300 năm (189 đến 544 - 548) nhưng vẫn còn nằm trong thời kỳ phôi thai chưa có gì đáng gọi là thạnh hành lắm. Ðến đời Hậu Lý Nam Ðế (571 đến 602) và Bắc thuộc lần thứ ba (603 đến 939) Phật giáo mới bắt đầu bước vào thời thạnh đạt, vì lúc bấy giờ có Ngài Tỳ-Ni-Ða Lưu-Chi ở Trung Hoa sang (580) đem Thuyền Tôn truyền bá và được người Việt Nam hết sức sùng mộ. Do đó, ảnh hưởng Phật giáo được lan rộng rất mạnh ở nước Việt Nam lúb ấy giờ. Ðiều đáng chú ý hơn hết là ba đoàn truyền giáo ở nước Việt Nam trong đó hai đoàn trước hầu hết là người Tàu, nhưng đoàn thứ ba lại hoàn toàn là 6 vị Pháp sư người Việt. Bốn Ngài ở Giao Châu: Vân Ký Thuyền sư, Mộc Xoa Ðề Bà, Khuy Sung pháp sư, Huệ Diệm pháp sư và 2 người Ái Châu: Trí Hành thuyền sư, Ðại Thặng Ðăng Thuyền sư.

B. PHẬT GIÁO ÐỜI ÐINH (968 đến 980)
VÀ ÐỜI TIỀN LÊ (980-1009)

Ðến đời Ðinh Phật giáo có thể là độc tôn, tất cả văn hóa, triều chánh trong nước phần lớn đều thuộc hạng Tăng sĩ, cho nên đạo Phật được phổ cập dễ dàng trong quần chúng, mặc dù Nho giáo và Lão giáo đã truyền vào từ lâu. Về triều chánh thì có Ngài Ngô Chân Lưu, làm đến chức Khuông Việt Thái sư. Ngoài ra có Ngài Trương Ma Ni làm Tăng Lục Ðạo sĩ và Pháp sư Ðặng Huyền Quang làm Sùng Châu uy nghi.

Ðến khi nhà Ðinh mất, nhà tiền Lê (Lê Ðại Hành) lên kế vị, chống lại quân nhà Tống (980). Trong giai đoạn này, các Tăng sĩ lại được biệt đãi hơn vì chính vua Ðại Hành vẫn thường triệu thỉnh các Tăng thống vào triều để hỏi việc nước và việc truyền bá Phật Giáo.

Ðiều đáng chú ý hơn cả là trong khi nước ta đã hòa với nước Tống, vua Ðại Hành liền cho sứ thần qua thỉnh kinh "Ðại Tạng" và "Cửu kinh" để đem về truyền bá. Ðấy là lần cầu kinh thứ nhất ở Việt Nam.

C. PHẬT GIÁO ÐỜI NHÀ LÝ (1010 đến 1225)

1. Lý Thái Tổ (1010 đến 1028): Tên húy là Lý Công Uẩn con nuôi của Lý Khánh Vân ở chùa Cổ Pháp thọ giới với ngài Vạn Hạnh Thuyền sư. Sau khi Vua Lê ngọa triều mất, Ngài lên kế vị lấy hiệu Thuận Thiên, đóng đô ở thành Thăng Long (Hà Nội). Lý Thái Tổ là một phật tử thuần thành nên sau khi lên ngôi, ngài hết chú trọng đến sự truyền bá Phật giáo. Ngài đã dựng rất nhiều ngôi chùa và độ rất nhiều Tăng chúng. Ðáng chú trọng hơn cả là đến năm thứ 9 (1019), Ngài sai sứ thần qua Tàu thỉnh kinh đem về cất tại kinh viện Ðại Hưng.

Triều đại này có thể nói rằng một triều đại hết sức thái bình, nói đến Phật giáo thì xưa nay chưa bao giờ có một thời đại nào thịnh đạt như thế. Vả lại, các vị thuyền sư lúc bấy giờ như Ngài Vạn Hạnh thuyền sư, Ða Bảo Thuyền sư, Sùng Phạm Thuyền Sư là những bậc danh Tăng mà nhà vua rất tin trọng. Cho nên truyền giáo của các Ngài rất dễ dàng mau chóng. Những vị danh Tăng này đều ở trong hai phái Tỳ-Ni-Ða Lưu-Chi và Vô Ngôn Thông.

2. Lý Thái Tôn (1028-1054): Lý Thái Tôn nối ngôi Thái Tổ lấy niên hiệu là Thiên Thành. Ngài cũng là người rất sùng mộ đạo Phật. Sau khi đánh dẹp giặc Chiêm ở đất Hoan Châu (Nghệ An) về, Thái Tôn sắc lập 95 ngôi chùa cử lễ khánh thành hạ chiếu miễn thuế cho dân trong nước một năm. Ðến năm 1034 Thái Tôn đổi niên hiệu là Thông Thụy; lúc bấy giờ nước Việt Nam được nhà Tống ban Ðại Tạng Kinh và tự sai sứ đưa qua cho ta; thật là một ảnh hưởng khả quan cho Phật giáo nước nhà mà cũng là một vinh dự tốt đẹp của triều đình Việt Nam lúc bấy giờ.

Lại trong khoảng 1034-1038, vua thường đến hỏi đạo với ngài Thuyền Lão thuyền sư và tự xưng làm đệ tử. Sau vua được Ngài Thuyền Lão truyền tâm pháp tức là người thứ bảy trong đời truyền thống thứ 7 của phái Vô Ngôn Thông.

Lúc bấy giờ có các vị cao Tăng như Ngài Huệ Sinh thuyền sư, Ðịnh Hương Trưởng Lão, Thuyền Lão thuyền sư là những bậc danh đức tu hành và có công truyền bá đạo Phật nhất trong triều đại Lý Thái Tôn này.

3. Lý Thánh Tôn (1054-1072): Thánh Tôn nối ngôi Thái Tôn, đổi quốc hiệu là Ðại Việt và lấy niên hiệu là Long Thụy Thái Bình. Ngài là một ông vua rất sùng mộ đạo Phật. Năm Long Thụy thứ 5 (1059), Ngài dựng chùa xây tháp và đúc một quả chuông nặng 12000 cân đồng, tại làng Bảo Thiên thuộc tỉnh Hà Nội, quả chuông ấy hiện nay vẫn còn.

Ðến năm Kỷ Dậu (1069) phái Thảo Ðường lại xuất hiện ở Việt Nam, do Ngài Thảo Ðường đệ tử ngài Tuyết Ðậu Minh Giác bên Tàu truyền sang.

Kế đó Lý Thánh Tôn thọ giáo với Ngài. Sau được truyền tâm pháp làm đệ tử đầu tiên của phái Thảo Ðường. Phái Thảo Ðường tức phái Thuyền Tôn thứ 3 ở nước ta vậy.

Lý Thánh Tôn là một tu sĩ của Phật Giáo, lại được đắc truyền tâm pháp. Như vậy cũng thấy rõ ảnh hưởng lớn lao của Phật giáo đối với dân chúng Việt nam lúc bấy giờ.

4. Lý Nhân Tôn (1072-1127): Lý Nhân Tôn nối ngôi Lý Thánh Tôn lên làm vua, mặc dầu nhà vua tuổi còn nhỏ nhưng rất thông minh anh dũng. Ngài lại rất hâm mộ Phật giáo. Cho nên ngoài công việc triều chánh ra, Ngài còn luôn luôn lo truyền bá Phật giáo. Vả lại lúc bấy giờ có nhiều vị danh Tăng lỗi lạc như Ngài Viên Chiếu Thuyền sư soạn quyển "Dược Sư Thập Nhị Nguyện Văn, Tán Viên Giác Kinh v.v..."

Còn Ngài Ngộ Ấn Thuyền sư thì chuyên môn diễn giảng, do đó Phật giáo rất được quần chúng hướng mộ và ảnh hưởng lan rộng khắp nơi.

5. Lý Thần Tôn (1128 đến 1138): Lý Anh Tôn (1138 đến 1175) Lý Cao Tôn (1176 đến 1210) và Lý Huệ Tôn (1211 đến 1225):

Trong 4 triều đại này, Phật giáo vẫn được thịnh đạt, nhưng không có gì được xuất sắc lắm. Có các vị cao Tăng như Ngài Minh Không Thuyền Sư, và Thông Biện Thuyền sư, thuộc đời Lý Thần Tôn, Ngài Bảo Giám thuyền sư và Ngài Viên THông Thuyền sư thuộc đời Lý Anh Tôn. Ngài Trương Tam Tạng Thuyền sư thuộc về đời Lý Cao Tôn. Qua đời Lý Huệ Tôn thì vận nước suy đồi, triều đình dấy loạn, dân sự không an. Nhà vua do đó sanh lòng chán nản. Nên vào năm Kiến Gia thứ 14 (1224), Ngài truyền ngôi cho con gái là Công Chúa Phật Kim, tức Lý Chiêu Hoàng, rồi xuất gia tu ở chùa Chân Giáo tự xưng là Huệ Quang đại sư.

Tóm lại, Phật giáo được thịnh hành nhất ở Việt Nam chính đời nhà Lý. Vì trong 215 năm trời, trải qua 8 đời truyền kế, vua nào cũng sùng tín đạo Phật. Lại được rất nhiều vị danh Tăng ra đời tận tâm vì Phật sự, cho nên ảnh hưởng của đạo Phật trong nhân gian được lan rộng và lợi lạc rất nhiều.


(Phật Pháp Ngành Thiếu; Thích Minh Châu, Thích Ðức Tâm, Thích Thiện Ân, Thích Chân Trí)
Ðánh máy: Trúc Oanh, GÐPT Từ Ân, Hoa Kỳ