- LUÂN HỒI
- HT. Thích Thiện Hoa
- (Trích từ Phật Học Phổ Thông)
A. MỞ ĐỀ
Vấn đề mất còn, sống chết
là một vấn đề vô cùng quan trọng, từ xưa đến nay đã làm băn khoăn,
thắc mắc không biết bao nhiêu người, đã làm hao tổn không biết bao
nhiêu giấy mực. Tựu trung, có hai thuyết làm cho người ta chú ý đến nhiều
nhất:
Một thuyết cho rằng, loài người
cũng như loài vật, một lần chết là mất hẳn, không còn gì tồn tại
sau đó nữa: "Cát bụi, con người trở về với cát bụi".
Một thuyết chủ trương trái lại:
loài người chết đi, nhưng linh hồn vẫn vĩnh viễn còn lại, để lên
thiên đàng, thọ hưởng mãi mãi những sự khoái lạc, an vui, hay xuống địa
ngục chịu cực hình mãi mãi.
Hai thuyết trên nầy đều không đúng
với sự thật:
Chết rồi, không thể là hoàn toàn
mất hẳn được, vì như chúng ta ở đời nầy, không có vật gì là mất
hẳn. Cho đến một hạt cát, một mảy lông cũng không thể mất hẳn, huống
là cái thân hay biết nơi con người.
Nhưng bảo rằng linh hồn thường còn,
ở mãi trên thiên đàng hay dưới địa ngục cũng không đúng. Sự nhận
xét thông thường cũng đủ cho người ta nhận thấy rằng: trong vũ trụ không
có một cái gì có thể vĩnh viễn ở yên một chỗ, mà trái lại, luôn
luôn biến đổi và xê dịch. Vả lại, có gì bất công hơn là chỉ vì những
cái nhân đã gieo trong một đời hiện tại ngắn ngũi, mà phải chịu cái
quả vĩnh viễn tốt hay xấu trong tương lai?
Hai thuyết "chấp đoạn" và
"chấp thường" trên nầy đều bị đạo Phật bác bỏ. Theo giáo
lý đạo Phật thì chúng sanh không phải đoạn diệt, cũng không phải thường
còn, mà là quay lộn trong cảnh sanh tử Luân hồi.
- B. CHÁNH ĐỀ
- I. ĐỊNH NGHĨA
Luân hồi dịch ở chữ Samsera
trong tiếng Phạn. Theo chữ Hán thì Luân là bánh xe; Hồi là xoay tròn. Hình
ảnh bánh xe quay tròn là một hình ảnh rất rõ ràng mà Phật đã dùng để
hình dung sự xoay chuyển, lên xuống, xuất hiện của mỗi chúng sanh trong
sáu cõi (lục đạo) khi đầu thai ở cõi nầy, khi ở cõi khác, luôn luôn
tiếp nối tử sanh, sanh tử không ngừng, như bánh xe lăn. Luân hồi là một
thuyết có thể chứng nghiệm được, chứ không phải hoang đường.
Khi chúng ta đã công nhận luật
nhân quả, thì chúng ta cũng không thể từ chối, không công nhận sự Luân
hồi, vì Luân hồi chẳng qua là nhân quả liên tục, nhưng vì nó khi biến,
khi hiện, khi lên, khi xuống, khi mất, khi còn, khi thay hình đổi dạng, nên
chúng ta tưởng như gián đoạn và không ảnh hưởng, chi phối lẫn nhau đó
thôi.
II. SỰ LUÂN HỒI
TRONG MỌI SỰ VẬT VÀ NGƯỜI
Trong vũ trụ tất cả sự vật, từ
vật nhỏ như hạt bụi, đến lớn như quả địa cầu, không vật nào chẳng
Luân hồi.
1. Đất Luân hồi
Như cái bình bông đang ở trước mặt
chúng ta đây, trước kia nó là đất, người thợ gốm đem nó nhồi nắn
làm thành cái bình, trải qua một thời gian, cái bình sẽ bị bể nát, tan
thành cát bụi và trở về lại trạng thái đất cát. Đất cát nầy lại
làm thức ăn cho cây cỏ; cây cỏ hoặc tàn rụi, sau một thời gian, để
trở thành phân bón cho cây khác, hoặc làm thực phẩm cho động vật. Động
vật ăn cây cỏ nầy vào, hoặc bài tiết ngay ra ngoài để thành phân,
thành đất, hoặc biến thành máu huyết, da thịt để một ngày kia thân thể
động vật già yếu, sẽ tan rã thành đất cát lại. Bao nhiêu lần thay
hình đổi dạng, vì nhân duyên nầy hoặc nhân duyên khác, nhưng đất cát,
nó cũng lại trở thành đất cát sau một thời gian, một vòng luân chuyển
dài hay ngắn.
2. Nước Luân hồi
Nước ở biển, bị sức nóng mặt
trời bốc thành hơi; hơi bay lên không, gặp hơi lạnh biến thành mây; mây
nhiều tụ lại rơi xuống thành mưa; mưa chảy xuống ao hồ, hoặc gặp
hơi lạnh quá, đọng lại thành băng thành giá. Băng giá gặp hơi nóng mặt
trời tan ra thành nước lại. Từ vô thỉ đến nay, nước thay đổi trạng
thái biết bao nhiêu lần, xoay vần mãi mãi như vậy, nhưng nước vẫn là nước.
Hiện tượng của nước thì biến đổi vô cùng, bản thể của nước thì
không bao giờ mất. Nó chỉ Luân hồi mà thôi.
3. Gió Luân hồi
Gió là sự luân chuyển của không
khí. Không khí bị sức nóng mặt trời bốc cháy. giãn ra, bốc lên cao làm
thành những khoảng trống. Để bù vào những khoảng trống ấy, không khí
ở các nơi khác chạy tới điền vào, gây thành luồng gió. Không khí xê dịch
chậm thì gió nhỏ, không khí xê dịch nhanh thì gió lớn. Xê dịch nhanh nữa
thì thành bão. Gió có khi hiu hiu, khi thoang thoảng, khi hây hây, khi ào ào,
khi cuồng bạo, nhưng bản chất của nó bao giờ cũng là không khí.
4. Lửa Luân hồi
Lửa là một sức nóng làm cháy
được vật. Khi đủ nhân duyên thì sức nóng phát ra lửa. Chẳng hạn hai
thanh củi trong trạng thái bình thường thì chúng ta chẳng thấy sức nóng,
ở đâu cả, nhưng khi chà xát vào nhau một hồi, thì lửa liền bật lên.
Ngọn lửa nầy có thể đốt hai thanh củi kia, và hai thanh củi nầy một
phần hóa thành tro than, một phần biến thành thán khí. Những cây khác
dùng rễ mình để thu hút thán khí, chất chứa lại sức nóng để một ngày
kia, gặp đủ nhân duyên lại bừng cháy lên. Như thế, sức nóng bao giờ cũng
có sẵn, nhưng khi thì nó ở trạng thái tiềm phục, khi thì ở trạng thái
phát hiện. Mắt chúng ta chỉ thấy khi nó phát hiện, và chỉ khi ấy mới
cho là nó có, còn khi nó ở trạng thái tiềm [hục thì ta bảo là nó không
có. thật ra thì nó chỉ Luân hồi qua những trạng thái khác nhau, chứ
không phải dứt đoạn hay mất hẳn.
5. Cảnh giới Luân
hồi
Trong khinh Phật thường nói:
"Thế giới nhiều như cát sông Hằng". Thật thế, ban đêm chúng ta
nhìn lên trời, thấy hằng hà sa số tinh tú. Mỗi tinh tú là một thế giới.
và mỗi thế giới ấy đều không thoát ra ngoài định luật chung là
Thành, Trụ, Hoại, Không. Mỗi phút giây nào cũng có sự sanh diệt của thế
giới. Thế giới nầy tan đi, thì thế giới khác nhóm lên, như một làn
sóng nầy mất đi thì một làn sóng khác nổi lên, làm nhân làm quả, tiếp
nối cho nhau, Luân hồi không bao giờ dứt.
6. Thân người
Luân hồi
Thân người, hay thân thú vật cũng
thế, xét cho cùng thì cũng do tứ đại mà có là đất, nước, gió, lửa.
Những chất cứng dẽo như da thịt gân xương là thuộc về Đất; những
chất đượm ướt như máu, mỡ, mồ hôi, nước mắt, là thuộc về Nước;
hơi thở ra vào, trái tim nhảy, phổi hô hấp, tay chân cử động là thuộc
về Gió; hơi nóng trong người là thuộc về Lửa. Như trên chúng ta đã thấy,
tứ đại đều Luân hồi, thì thân người do tứ đại mà có, cũng phải
Luân hồi theo. Khi thân nầy chết và đến lúc tan rã, thì chất cứng dẽo
trả về cho Đất; chất đượm ướt trả về cho nước; hơi nóng trả về
cho Lửa; hơi thở và sự cử động trả về cho Gió. Rồi bốn chất nầy
tùy theo duyên chung hợp lại, làm thành cây cỏ hay thân người khác. Người
khác đến khi chết rồi, bốn chất đó trở về bản thể cũ của chúng.
Khi thành thân người, lúc làm thân súc, năm nay tụ hợp ở đây, sang năm
đã dời đi nơi khác, không phải thường còn, cũng không phải mất hẳn,
mà là Luân hồi.
Nhà Học giả tiếng tăm của Trung
Hoa là ông Lương Khải Siêu có nói, trong khi nghiên cứu về Phật Giáo Ấn
Độ: "...Con người luôn luôn, trong từng phút giây đều ở trong Luân
hồi, bất quá hoặc mau hoặc chậm. Chậm thì gọi là sanh diệt hoặc biến
dị, còn mau thì gọi là Luân hồi" (Luân hồi chẳng qua cũng là một
hình thức trong các loại biến dị). Xem như xác thânh chúng ta, biến hóa
không ngừng, xương thịt máu huyết chúng ta, chẳng qua không đầy một tuần,
cũng rất có thể hóa ra đất bụi bên đường."
7. Tinh thần Luân
hồi
Con người không phải chỉ gồm có
tứ đại. Ngoài tứ đại, còn có phần tâm lý nữa, hay nói một cách tổng
quát hơn, còn có tinh thần. Đó là gồm tất cả những thứ mà đạo Phật
gọi là: Thọ, tưởng, hành, Thức. Phần thể xác gồm tứ đại chỉ là
phần mà đạo Phật gọi là Sắc. Sắc đã không tiêu diệt mà chỉ biến
hóa Luân hồi, thì Tâm hay Tinh thần, cũng không tiêu diệt mà chỉ biến
chuyển xoay vần mà thôi.
Như trong chương II đã nói, tất cả
những hành động của thân tâm tạo thành cho mỗi chúng ta một cái nghiệp.
Cái nghiệp ấy biến dịch, xoay vần mãi, khi đội lớp nầy khi mang hình
dáng khác, khi rời cảnh giới nầy, khi vào cảnh giới khác, quanh lộn
trôi lăn trong lục đạo (sáu đường) mãi mãi cho đến ngày nào được giác
ngộ mới thôi.
Nhưng sự lên xuống, trôi lăn, xoay
vần của nghiệp trong ba cõi sáu đường ấy, không phải tình cờ, ngẫu
nhiên, may rủi, vô lý, mà trái lại, nó theo một cái định luật chung, đó
là luật Nhơn quả. Đến đây, chúng ta thấy được sự tương quan mật
thiết giữa nhơn quả và Luân hồi. Đã có Nhơn quả, tức phải có Luân hồi
(trừ trường hợp tu nhơn giải thoát); đã có Luân hồi phải tuân theo luật
Nhơn quả.
III. LUÂN HỒI
THEO LUẬT NHÂN QUẢ QUA SÁU CÕI
Có thể nói một cách chắc chắn rằng,
chúng ta lúc sanh tiền tạo nhân gì, thì khi chết rồi, nghiệp lực dắt dẫn
tinh thần đến chỗ nó thọ báo không sai. nếu tạo nhân tốt, thì Luân hồi
đến cảnh giới giàu sanh, thân người tốt đẹp. Còn tạo nhân tội ác,
thì Luân hồi đến cảnh giới nghèo hèn, thân hình xấu xa, tàn tật, sự
nghiệp khi thăng khi giáng, lúc thạnh lúc suy.
Sau đây là những cảnh giới mà một
chúng sinh có thể bị hay được nhập vào, tùy theo nghiệp nhân mà mình tạo:
1. Địa ngục: Tạo nhân sân
hận, độc ác làm nhiều điều tội lỗi vừa hại mình vừa hại người,
phải Luân hồi vào địa ngục, chịu đủ điều khổ sở.
2. Ngạ quỷ: Nhân tạo tham
lam, bỏn sẻn, không biết bố thí, giúp đỡ người, từ tiền của đến
giáo pháp. Trái lại, còn mưa sâu, kế độc, để cướp đoạt của người,
sau khi chết, Luân hồi làm ngạ quỷ.
3. Súc sanh: Tạo nhân si mê sa
đọa theo thất tình, lục dục, tửu sắc, tài khí, không xét hay dỡ, tốt
xấu, chết rồi, Luân hồi làm súc sanh.
4. A Tu La: gặp việc nhân nghĩa
thì làm, gặp việc sai quấy cũng không tránh, vừa cang trực, mà cũng vừa
độc ác. mặc dù có làm những điều phước thiện, nhưng tánh tình hung hăng
nóng nảy vẫn cònm, lại thêm tà hiến, si mê, tin theo tà giáo. Tạo nhân
như vậy, kết quả sẽ Luân hồi làm A Tu La, gặp vui sướng cũng có, mà
buồn khổ cũng nhiều.
5. Loài người: Tu nhân Ngũ Giới:
Không sát hại, không trộm cướp, không tà dâm, không dối trá, không rượu
trà say sưa, thì đời sau trở lại làm người, cao quý hơn muôn vật.
6. Cõi trời: Bỏ mười điều
ác tu nhơn Thập thiện (bài sau sẽ nói rõ) thì sau khi chết, được sanh lên
cõi trời. Nhưng nên nhớ cõi trời nầy cũng còn ở trong vòng phàm tục,
chịu cảnh sanh tử, Luân hồi.
Muốn thoát ra ngoài cảnh giới sanh
tử Luân hồi, và đến bốn cõi Thánh là Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát,
và Phật, thì phải tu nhân giải thoát.
- IV. VÀI BẰNG CHỨNG VỀ LUÂN
HỒI
- MỘT CHUYỆN LUÂN HỒI Ở ẤN ĐỘ
Cách đây vài chục năm, tờ báo
Mai có chụp hình và đăng một câu chuyện như sau:
Tại Ấn độ, ở thành Delhi (đen
li) có một cô gái 8 tuổi tên Phatidevin (Pha ti đơ vanh). Cô gái đã nhiều lần
khóc lóc với cha mẹ đòi về thành Mita thăm chồng là một giáo viên.
Thành Delhi cách thành Mita trên 200 cây số. Cha mẹ co gái lấy làm lạ, mời
một phóng viên nhà báo đến, để nhờ anh điều tra giùm.
Phóng viên nhà báo đén hỏi, thì
được cô cho hay rằng: Cô là vợ của một giáo viên, ăn ở với nhau sanh
được một đứa con. Khi đứa con lên 11 tuổi, thì cô lâm bịnh và từ trần.
Người phóng viên hỏi xem cô ta, có cái gì làm bằng chứng không. Cô trả
lời cô có để lại vàng bạc và đồ đạc chôn ở chỗ nọ chỗ
kia...Và cô còn nhớ rõ có một cái quạt, do người chị em bạn tặng, trên
quạt có ghi lại mấy dòng chữ, rồi cô đọc mấy dõng chữ ấy cho phóng
viên chép vào sổ tay.
Phóng viên liền đến thành Mita,
tìm hỏi tên họ ông giáo viên, thì thật quả không sai. Phóng viên hỏi
ông giáo:
Ông có người vợ chết độ 8,9
năm nay phải không?
Ông giáo trả lời:
Vâng, có ! Vợ tôi chết nay đã
chín năm. Chảng biết ông hỏi có việc chi?
Phóng viên trình bày những lời cô
bé đã nói.
Ông giáo nghe đều cho là đúng cả.
Phóng viên lại lấy quyển sổ tay
đưa mấy dòng chữ cho ông giáo, đọc và hỏi:
Khi vợ ông mất, có để lại một
cây quạt, trên ấy có ghi mấy dòng chữ như thế này có phải không?
Ông giáo trả lời:
trúng y như vậy cả !
Qua ngày sau, phóng viên lại mời
cha mẹ và cô Phatidevin cùng đi tới thành Mita. từ khi sanh ra đến tám tuổi,
cô chưa từng đi xa, thế mà đường đi đến thành Mita, cô đều thuộc cả,
cô chỉ đường nầy là đường gì, đi về đâu, đường kia tên gì, đi về
đâu, và còn nói trúng cả tên những nhà quan ở hai bên đường nữa. gần
đến nhà ông giáo, cô bảo xe đi chậm lại và dừng ngay trước nhà ông
giáo.
Vào đến nhà, gặp ông già độ 80
tuổi, đầu tóc bạc phơ, cô vừa mừng vừa khóc òa mà nói rằng:
Đây là cha chồng tôi.
Cô chỉ ông giáo mà nói:
Kia là chồng tôi.
Rồi chạy lại ôm đứa con mà
khóc và nói:
Đây là con tôi.
Mọi người trông thấy ai cũng lấy
làm ngạc nhiên và cảm động !
Việc này làm sôi nổi dư luận
Ấn độ
và các báo trên thế giới đều bàn tán xôn xao. Các nhà Bác học ra sức
tìm tòi nghiên cứu, nhưng không sao giải thích được. Chúng ta đã rõ biết
lý Luân hồi, thì việc này cũng chẳng lạ gì.
MỘT CHUYỆN LUÂN HỒI
TẠI MỸ
vào khoảng năm 1956, ở Mỹ có một
thiếu phụ 33 tuổi, tên "Xi Mông" (Ruth Simmons) vì quá tin tưởng có
kiếp Luân hồi nên cô đã nhờ nhà thôi miên "Mô rây Bét tanh"
(Morey Bernstein) giúp, được thấy lại kiếp trước của cô. Nhà thôi miên
kia, sau khi đưa cô vào giấc ngủ, liền bảo:
Thử nhớ lại hồi 10 tuổi, cô đã
làm gì?
Cô Xi Mông, trong cơn mê, nói lại
thuở thiếu niên của cô, những lúc cô đi học và tả tỉ mỉ những lúc
cô nô đùa với bạn. Nhà thôi miên lại bảo:
Bây giờ thử nhớ lại lúc cô 1 tuổi,
cô thấy gì?
Cô trả lời bằng những tiếng bập
bẹ y như đứa trẻ chưa biết nói. Nhà thôi miên lại dồn hết tinh thần
vào cặp mắt, nhìn thẳng vào mặt cô Xi Mông và nói:
Thử nhớ lại tiền kiếp của cô?
Sau một lúc im lặng, cô Xi Mông mới
nói, nhưng giọng nói của cô đã đổi khác, giọng Ái Nhĩ Lan (ở Anh Quốc),
chứ không phải giọng người Mỹ.
Cô kể lại rằng:"Kiếp trước
cô đầu thai vào gia đình họ "Mướt phi" (Murphy) ở làng
"Cót" (Cork) bên Ái Nhĩ Lan vào năm 1898. Cô tả tơi chôn nhau cắt
rún của cô và cho biết nhiều chi tiết về làng này. Cô nói thêm rằng chồng
cô tên "Mắc Các Ty" (Brian Mac Carthy), giáo sư trường luật đã từng
cộng sự với tờ báo "Ben phát niu" (Belfast News). Rồi sau cùng cô
nói đến ngày cô chết, mả cô hiện ở đâu, và cô phải làm ma hơn một
thế kỷ. Sau đó, cô đầu thai vào gia đình họ "Xi Mông" (Simmons)
ở Mỹ hồi năm 1923.
Nhà Thôi miên đã thâu tất cả lời
nói của Xi Mông về tiền kiếp của cô, và sau đó viết một quyển sách
nhan đề là: "Đi tìm gốc tích cô Mướt phi (Murphy)". Sách này in
ra 170 ngàn cuốn, và chỉ trong ba tháng đã bán sạch. Sau đó, nhà Thoi miên
lại lấy lời thuật chuyện của cô Xi Mông thâu vào ba mươi ngàn (30.000)
dĩa nhựa và chỉ trong hai ngày đã bán sạch.
Chuyện này báo chí quốc tế có
đăng tin, riêng ở Pháp có tờ "Ba ri Mách" (Baris Math) thuật lại rất
rõ; ở Việt Nam cũng có nhiều tờ báo nói đến, như tờ Tin Điển, tờ
Liên Hoa v.v...
MỘT CÂU CHUYỆN THAY
NGHIỆP ĐỔI XÁC Ở VIỆT NAM
Ở Cà Mau cách đây vào khoảng 30 năm,
có một câu chuyện lạ lùng đã làm dư luận bàn tán xôn xao:
Ông
Cả Hiêu, ở làng Tân Việt, xứ
Đầm Dơi (Cà Mau) có cô gái 19 tuổi, lâm bịnh rồi chết. Cách đó độ
100 cây số, ông Hương Thừa ở làng Vĩnh Mỹ (Bạc Liêu) cũng có cô con
gái đau rồi chết, nhưng lại sống lại. Khi sống lại, cô nầy nhìn
không biết cha mẹ và nói chuyện đâu đâu, không ai hiểu gì cả. Cha mẹ
cô tưởng rằng, vì cô đau nên lãng chí nói bậy. Nhưng khi cô lành mạnh
hẳn, cô lại khóc lóc, một hai đòi về nhà ông Cả Hiêu và chỉ cả nơi
ở, làng tổng rõ ràng nữa.
Cha mẹ cô cho người đến tìm ông
Cả Hiêu và thuật câu chuyện cho vợ chồng ông này nghe. Vợ chồng con
cái ông Cả nghe xong, đều đi đến xem thật hư như thế nào.
Khi mọi người đến nơi, cô gái
chạy ngay đến ôm ông Cả, bà Cả khóc kể...Rồi cô thuật những chuyện
đã xảy ra trong nhà ông Cả, không sai một mảy. Vợ chồng ông Cả, tuy thấy
xác cô gái này không phải con mình, nhưng về tinh thần lại chính là con họ,
nên đều thương yêu và công nhận là con. Về sau, cô hưởng được hai phần
gia tài của cải, cả hai bên cha mẹ.
V. QUYẾT NGHI
1. Có người hỏi: Nếu có luân hồi,
thì khi chết rồi, một người chỉ sanh lại một người thôi, tại sao
trên thế giới nầy, khi mới khai thiên lập địa, chưa có người, mà cứ
mỗi ngày nhân loại cứ thêm đông? Vậy do đâu mà có nhiều người thế?
Trả lời: Trong đoạn trước, chúng
tôi đã nói: chúng sinh luân hồi trong sáu cảnh giới là Thiên, Nhơn, A tu
la, Ngạ quỷ, Súc sanh, Địa ngục, và một chúng sanh ở cảnh giới này,
có thể đầu thai qua cảnh giới khác, đắp đổi cho nhau, khi lên khi xuống,
chứ không phải chỉ có người mới đầu thai làm người mà thôi. Những
loài thú có những tâm trạng gần giống người, có thể đầu thai làm người
được, cũng như những người, có tâm trạng lang sói, sẽ trở thành lang
sói.
Hơn nữa, trong đoạn trước, chúng
ta cũng đã thấy, trong kinh Phật có chép: thế giới trong vũ trụ nầy nhiều
như cát sông Hằng, chứ đâu phải chỉ một quả đất nầy là trung tâm
điểm của vũ trụ, và mới có người? Các nhà bác học cũng công nhận mỗi
ngôi sao là một thế giới, trong hằng hà sa số thế giới ấy, có biết
bao nhiêu là thế giới có hoàn cảnh giống như quả đất nhỏ bé chúng ta
đang ở đây ! Thế giới đã nhiều như thế, thì nhân loại đâu phải
ít? Tại sao chúng ta không thể tin được rằng: thế nào cũng có sự luân
chuyển, sự lưu thông, sự trao đổi về phương diện tinh thần, về cái
nghiệp giữa thế giới khác? Mỗi một thế giới sặp hoại, thì chúng
sinh ở thế giới ấy sẽ di cư đến thế giới khác, gần đó. Trong kinh
Địa Tạng có chép:
"Thử thế giới hoạt thời,
hoàn ký tha phương.."( thế giới nầy hoại, gởi qua thế giới khác,
thế giới khác hoại, lại gởi đến thế giới khác nữa...). Như châu
thành Saigon hiện nay, dân số rất đông, là do người ở các tỉnh đến.
Khi giặc yên, dân chúng lại trở về các tỉnh, thì dân số Saigon tự
nhiên bớt. Nên nhiều hay ít là do số dân ở các nơi tựu đến, hay tan
đi. Trong thế giới hiện nay nhân loại nhiều hay ít cũng như vậy.
2. Có người hỏi: Người và thú vật
hoàn toàn khác nhau, làm sao người có thể tái sanh thành thú vật và thú vật
thành người được?
Trả lời: Người ta thường có
quan niệm sai lầm rằng, người có linh hồn người, thú vật có linh hồn
thú vật. Linh hồn người hay linh hồn thú vật đều bất biến, dù chết
hay sống. Vì tưởng tượng như thế, nên người ta không thể công nhần rằng:
chết rồi, linh hồn người trở lại chui vào thân hình chó, mèo chẳng hạn,
và hồn chó mèo lại có thể vào nằm trong lốt thân hình người ta.
Thật ra, nghiệp không phải là linh
hồn, mà là một năng lực có nhuốm tính chất những hành động của mỗi
chúng sinh. Vì tính chất riêng biệt ấy, mà nghiệp lực nhập vào một
hình thức nầy hay một hình thức khác, do cái luật hấp dẫn, (đồng
thanh tương ứng, đồng khí tương cầu).
Thay vì nói người kia trở thành
thú, hay trái lại, thú kia trở thành người, đúng hơn, nên nói: "nghiệp
lực phát hiện dưới hình thể người hay dưới hình thể thú
!"(Narada Maha Théra).
C. KẾT LUẬN
Giáo lý luân hồi đem lại cho chúng
ta nhiều điều lợi ích:
Nó phá "đoạn kiến" sai lầm,
làm cho con người đâm ra chán nản, vì nghĩ rằng, dù mình có cố gắng
ăn ở cho có đạo đức, làm các điều hay đẹp, rồi cuối cùng cũng chẳng
đem theo địa được cái gì, chẳng được hưởng gì cả, một khi thân thể
đã tiêu tan.
Nó phá "thường kiến" sai
lầm, làm cho con người tin rằng, loài người chết rồi, vẫn giữ địa vị
của mình, dù có làm phúc hay tôi cũng vậy. Do đó, người ta cũng không cần
phải cố gắng trong lúc sanh tiền.
Với giáo lý luân hồi, chúng ta phấn
khởi mà tin rằng: chết rồi không thể mất hẳn; nhưng nếu chúng ta
không biết vun trồng cội phúc, không cố gắng sống một đời sống có
đạo đức, thì đời sau, chúng ta sẽ sanh vào cảnh giới xấu xa đen tối.
Giáo lý luân hồi làm cho chúng ta
thêm lòng tự tín, tự thấy mình là chủ nhân của đời mình, mình tạo
nghiệp nhân gì, thì mình chịu nghiệp quả ấy, chứ không ai cầm cân thưởng
phạt, ban phước, giáng họa cho mình cả.
Nay chúng ta đã hiểu ý nghĩa và
giá trị của giáo lý luân hồi, chúng ta nên cố gắng cải tạo tư tưởng,
lời nói là hành vi của chúng ta, để tránh cho kiếp sau khỏi lâm vào cảnh
giới đau khổ. Một khi các nhân ác đã được rửa sạch, những quả lành
đầy đủ, các nghiệp hữu lậu không còn, lúc bấy giờ chúng ta có thể
thoát ra khỏi luân hồi sanh tử và đạt đến cảnh giới tốt đẹp, bất
sanh bất diệt của các vị A La Hán, Bồ Tát hay Phật.
http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/036-tth-luanhoi.htm
Xin cảm ơn Thầy Thích
Nhật Từ (http://www.buddhismtoday.com)